Thuaàn tònh thuaàn thieän
Phöôùc hueä song tu

hoathuongtinhkhong.vn

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ YẾU GIẢI GIẢNG KÝ - TẬP MỘT - B

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

YẾU GIẢI GIẢNG KÝ

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MỘT - B
 

II. GIẢNG GIẢI LỜI TỰA NÊU LÝ

DO SOẠN SÁCH DI ĐÀ YẾU GIẢI
 

Tự Nguyên phù Chư Phật mẫn niệm quần mê, tùy cơ thi hóa. Tuy quy nguyên vô nhị, nhi phương tiện đa môn. Nhiên, ư nhất thiết phương tiện chi trung, cầu kỳ chí trực tiệp, chí viên đốn giả, tắc mạc nhược niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ.

Hựu, ư nhất thiết niệm Phật pháp môn chi trung, cầu kỳ chí giản dị, chí ổn đáng giả, tắc mạc nhược tín nguyện chuyên trì danh hiệu. Thị cố, Tịnh Độ Tam Kinh tịnh hành ư thế, nhi cổ nhân độc dĩ A Di Đà Kinh liệt vi nhật khóa.

Khởi phi hữu kiến ư trì danh nhất pháp, phổ bị tam căn, nhiếp sự, lý dĩ vô di, thống Tông, Giáo nhi vô ngoại, vưu vi bất khả tư nghị dã tai.

Cổ lai chú sớ, đại bất phạp nhân.

Thế viễn, tựu yên, sở tồn vô kỷ.

Vân Thê Hòa Thượng trước vi Sớ Sao, quảng đại tinh vi. U Khê sư bá thuật Viên Trung Sao, cao thâm hồng bác. Cái như nhật nguyệt trung thiên, hữu mục giai đổ. Đặc dĩ, văn phú, nghĩa phồn, biên nhai mạc trắc, hoặc trí sơ cơ thiển thức, tín nguyện nan giai.

Cố phục phất sủy dung ngu, tái thuật Yếu Giải. Bất cảm dữ nhị ông cạnh dị, diệc bất tất dữ nhị ông cưỡng đồng dã. Thí như trắc khán thành phong, hoành khán thành lãnh. Túng giai bất tận Lô Sơn chân cảnh, yếu bất thất vi các các thân kiến Lô Sơn nhi dĩ. Tương thích Kinh Văn, ngũ trùng huyền nghĩa.

Lời tựa: Nguyện vì Chư Phật nghĩ thương xót quần mê, tùy theo từng căn cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa.

Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, thì không gì bằng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Lại nữa, trong hết thảy các pháp môn niệm Phật, cầu lấy một pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa nhất, thích đáng nhất, thì không gì bằng tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu.

Vì thế, ba Kinh Tịnh Độ cùng được lưu hành trong cõi đời, nhưng cổ nhân lại xếp riêng Kinh A Di Đà vào khóa tụng thường ngày, há chẳng phải là vì thấy pháp Trì Danh thích hợp trọn khắp ba căn, thâu nhiếp sự lẫn lý chẳng sót, bao trùm Tông lẫn Giáo chẳng thừa, thật là chẳng thể nghĩ bàn đó ư?

Từ xưa đến nay, không đời nào thiếu người Chú Sớ Kinh này, nhưng thời đại đã lâu, khiến những bản văn ấy bị mất mát, chẳng còn lại được mấy.

Hòa Thượng Vân Thê trước tác bộ Sớ Sao, rộng lớn, tinh vi. Sư bá U Khê soạn cuốn Viên Trung Sao, cao sâu, mênh mông, bát ngát. Giống hệt như mặt trời, mặt trăng giữa Trời, kẻ nào có mắt đều trông thấy, nhưng vì văn nhiều, nghĩa lắm, khó lường được bến bờ. Chắc sẽ đến nỗi khiến cho kẻ sơ cơ, kém hiểu biết, khó thành tựu tín nguyện.

Vì thế, tôi chẳng nề hà chính mình tầm thường, ngu muội, lại viết cuốn Yếu Giải. Chẳng dám ganh đua cho khác với hai ông, mà cũng không nhất thiết phải gượng ép cho giống với hai vị. Ví như nhìn dọc thành ngọn, nhìn ngang thành rặng, dẫu đều chẳng thể thấy trọn hết cảnh Lô Sơn, chỉ cốt sao ai nấy chẳng đánh mất cảnh Lô Sơn theo như chính mình đã thấy mà thôi.

Kinh Văn được giải thích theo năm tầng huyền nghĩa. Kinh này có tựa đề là Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Có những bộ Kinh, Phần Tựa đề được bắt đầu bằng hai chữ Phật Thuyết, có Kinh chẳng thêm hai chữ này. Như Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đều chẳng thêm hai chữ Phật Thuyết, nhưng cả hai Kinh ấy quả thật đều do Đức Phật nói.

Theo thông lệ, nếu câu thứ nhất trong phần Chánh Tông của Kinh Điển được bắt đầu bằng Phật Thuyết thì tựa đề Kinh sẽ ghi thêm hai chữ Phật Thuyết. Nếu không phải là hai chữ Phật Thuyết thì không thêm. Từ nội dung và tánh chất, những Kinh do Đức Phật được giảng được phân loại thành mười hai phần giáo.

Trong ấy, có một loại là Vô vấn tự thuyết, không ai hỏi mà Đức Phật tự nói: Đức Phật thấy cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi, có thể tiếp nhận một tầng giáo hóa nào đó, liền chẳng do ai hỏi mà tự nói. A Di Đà, Amitābha là tiếng Phạn, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. A Di Đà Phật chính là vô lượng giác.

Phật vốn là hết thảy vô lượng, nhưng trong Kinh này chỉ đặc biệt nói đến hai ý nghĩa, tức là vô lượng thọ và vô lượng quang. Thọ chỉ thời gian, tức quá khứ, hiện tại, vị lai. Quang chỉ không gian, tức mười phương Thế giới.

Thời gian và không gian bao gồm hết thảy. Quang và Thọ tượng trưng cho không gian và thời gian, nhưng hai chữ quang, thọ sống động, ý nghĩa sâu xa vượt hẳn thời gian, không gian.Trong hết thảy các thứ vô lượng, thọ mạng quan trọng nhất. Nếu thọ mạng hữu hạn thì hết thảy trí huệ, tài nghệ, đức năng, của cải đều vô ích.

Đối với chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, Thánh Hiền Cổ Đại của Trung Quốc có nhận thức rất khá.

Chẳng hạn như trong Đạo Đức Kinh gồm năm ngàn chữ của Lão Tử, vừa mở đầu liền nói: Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh.

Ngài biết Danh là giả. Danh hiệu của Phật, Bồ Tát là do căn cứ trên tông chỉ giáo hóa chúng sanh mà đặt ra, nói theo ngôn ngữ hiện thời là khẩu hiệu. Như Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh trong Thế Giới Ta Bà này, phương châm dạy học của Ngài là dựa theo căn bệnh mà cho thuốc.

Chúng sanh trong Thế giới này quá nhiều bệnh, điều thứ nhất họ thiếu sót là tâm từ bi, điều thứ hai là vọng tưởng, chấp trước quá nặng. Do vậy, Phật lập hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Śākyamuni.

Thích Ca, Śākya nghĩa là Nhân Từ, Mâu Ni, Muni là Tịch Diệt, danh hiệu ấy nhằm hướng dẫn chúng sanh mang lòng từ bi, tâm địa thanh tịnh. Nếu A Di Đà Phật đến Thế giới này làm Phật, cũng phải dùng tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni thì mới có thể trị bệnh cho chúng ta.

Nếu Thích Ca Mâu Ni đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới làm Phật sẽ chẳng thể dùng danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Bởi lẽ, người Tây Phương ai cũng nhân từ, tâm địa mỗi người đều thanh tịnh, chẳng cần đến món thuốc nhân từ, tịch diệt.

Phật không có danh hiệu cố định, cũng chẳng có danh hiệu vĩnh cửu, mà là ứng theo căn cơ để thuyết pháp, nên cũng chẳng có pháp nào nhất định để nói.

Đức Phật Giáo hóa chúng sanh, tùy loại hiện thân, không có tướng mạo nhất định, mà thị hiện tùy theo tướng mạo của mỗi dân tộc, như Kinh Lăng Nghiêm đã nói: Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng. Tùy theo tâm chúng sanh mà ứng hiện phù hợp với khả năng nhận biết của họ. Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng mọi thời đại.

Từ ba ngàn năm trước, những Kinh Điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những Kinh Điển ấy, chúng sanh ngày nay vẫn được thọ dụng giống hệt, chẳng khác biệt gì.

Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nhau, nhằm phổ biến ứng dụng thích hợp với mỗi thời đại, cần phải có chú giải. Chú giải chính là hiện đại hóa và địa phương hóa Kinh Phật. Bản Yếu Giải này do Ngẫu Ích Đại Sư viết dưới đời Minh, cách nay đã năm trăm năm.

Ngày nay, giảng cuốn Yếu Giải này, lại phải dùng phương thức hiện đại hóa để giải thích. Còn người như thế nào thì mới có thể dịch, giảng, giải, đều là những câu hỏi nghiêm túc. Nếu phiên dịch Kinh Điển mà chẳng hiểu rõ ý nghĩa chân thật của Phật, có lẽ sẽ phiên dịch sai lạc.

Cổ Nhân nói: Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan.

Ắt cần phải như bài Kệ Khai Kinh đã nói: Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.

Các vị đồng học nên biết: Trong thời gần đây, Trung Quốc chịu nhục, gần như điều gì cũng thua người ngoại quốc. Thật ra, người Trung Quốc chính là những người may mắn nhất, có phước nhất. Phật Giáo truyền đến Trung Quốc, Cao Tăng đại đức tu hành trong các đời đều là người tu hành chứng quả.

Chứng quả có nghĩa là đối với những lý luận do Đức Phật giảng giải trong Kinh, họ đều hiểu rõ hoàn toàn. Nếu họ chẳng thể chứng nghiệm thật sự, chỉ nghe Phật nói, chứ chính mình chưa thể đích thân chứng nhập thì phiên dịch Kinh Điển hoặc giảng Kinh thuyết pháp nhất định sẽ nẩy sanh sai lầm. Do vậy, những bậc cổ đức phiên dịch, giảng Kinh, thuyết pháp từ xưa đều chẳng phải là phàm nhân.

Nếu chúng ta muốn kế thừa di sản quý báu ấy, Tổ Tiên chúng ta chỉ đòi hỏi một điều kiện: Thông hiểu văn chương Văn Ngôn. Tổ Tiên thông minh, biết ngôn ngữ sẽ biến đổi theo thời đại, nhưng văn tự bất biến, nên chia ngôn ngữ và văn tự thành hai đường lối.

Vì vậy, thể loại văn chương Văn Ngôn lưu truyền cả ngàn năm chẳng biến hóa. Hiện thời, đọc Luận Ngữ giống như trò chuyện cùng Khổng Lão Phu Tử, đọc sách Mạnh Tử giống như gặp mặt Mạnh Tử.

Kinh Phật được phiên dịch trễ nhất là vào thời đại Nam Tống, số lượng những bản Kinh được dịch trong thời ấy không nhiều. Bảy, tám phần trong mười phần là được phiên dịch vào thời Tùy, Đường. Văn tự dùng trong Kinh Điển là những từ ngữ dễ hiểu, đơn giản nhất trong thời đại dịch Kinh, đấy cũng là thể văn Bạch Thoại trong thời đó.

Chẳng hạn như A Di Đà Kinh được phiên dịch vào thời đại Diêu Tần, còn trước thời Tùy Đường nữa, nhưng dễ hiểu hơn nếu đem so với văn chương của Đào Uyên Minh, Đào Tiềm sống cùng thời ấy. Nếu có trình độ thông hiểu văn chương Văn Ngôn kha khá, quý vị sẽ có thể tiếp nhận di sản trí huệ quý báu của Cổ Thánh Tiên Hiền.

Để học văn chương Văn Ngôn thì phải thực hiện bằng cách học thuộc Cổ Văn, tận hết sức chọn lựa những tác phẩm trong bộ Cổ Văn Quán Chỉ, học thuộc năm mươi bài là có thể đọc được Cổ Văn. Học thuộc một trăm bài sẽ có thể viết theo lối văn Văn Ngôn. Tôi thường khuyến khích các đồng tu bảo ban con cháu của chính họ hãy học thuộc Cổ Văn.

Hiện thời, tuy các cháu cảm thấy rất khó khăn, nhưng trong tương lai, chúng nó sẽ cảm kích cha mẹ suốt đời. Nếu tuổi đã lớn hơn một chút, thì do bận bịu công việc, họ sẽ không còn thời gian, tinh lực như vậy nữa. Tốt nhất là học thuộc Vô Lượng Thọ Kinh, chỉ có bốn mươi tám chương.

Bản hội tập của Hạ lão cư sĩ hết sức hay, những phần Kinh Văn quan trọng nhất, tinh hoa nhất đều được thâu thập, bao gồm nội dung của năm bản dịch gốc. Bản dịch Vô Lượng Thọ Kinh sớm nhất là bản dịch thời Hậu Hán, bản trễ nhất là bản đời Tống.

Nếu có thể tụng thuộc thì đọc các Kinh Điển khác sẽ chẳng thấy khó khăn gì. A Di Đà Kinh là do La Thập Đại Sư dịch vào thời Diêu Tần. Tại Trung Quốc, có bốn Triều Đại lấy quốc hiệu là Tần, các nhà sử học đem dòng họ của Đế vương đặt trước chữ Tần để phân biệt.

Triều Đại thứ ba là Phù Tần, Vua là Phù Kiên. Đại Thần của ông ta là Diêu Trành phát động chánh biến, lật đổ Phù Kiên, tự lập làm Vua, xưng là Diêu Tần.

Thuở ấy, có không ít Cao Tăng, Đại Đức xuất hiện, như Huệ Viễn, Đạo An, Tăng Triệu, các danh sĩ như Tạ Linh Vận, Đào Uyên Minh đều thuộc cùng một thời đại.

Tam Tạng Pháp Sư là danh xưng học vị. Đối với Tam Tạng Kinh, Luật, Luận do Đức Phật đã nói, không gì chẳng thông đạt thì mới có thể xưng là Tam Tạng Pháp Sư.

Ngẫu Ích Đại Sư sanh vào cuối thời Minh, mất vào đầu đời Thanh. Cuộc đời Ngài đã được ghi chép tường tận trong truyện ký.

Ngoài ra, trong các sách Di Đà Yếu Giải Giảng Nghĩa và Di Đà Yếu Giải Thân Văn Ký đều có chép tường tận. Sách Yếu Giải Giảng Nghĩa do Pháp Sư Viên Anh soạn, Di Đà Yếu Giải Thân Văn Ký do Pháp Sư Bảo Tịnh viết, đây là hai tác phẩm chú giải rất hay. Đại Sư tuổi già chuyên Tu Tịnh Độ.

Do vậy, Ngài lấy biệt hiệu là Tây Hữu, ngụ ý: Tây Phương Cực Lạc Thế Giới như Đức Phật đã nói là một nơi có thật. Từ trước đến nay mọi người đều nghĩ Thế Giới Ta Bà do Đức Phật đã nói chỉ là một hệ Ngân Hà, Milky Way, nhưng theo như lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giải thích thì một hệ Ngân Hà chỉ là một đơn vị Thế giới được nói tới trong Kinh Phật.

Tính toán theo cách này, một tam thiên đại thiên Thế giới bao gồm mười ức hệ Ngân Hà, là khu vực giáo hóa của một Đức Phật.

Có thể thấy là Vũ Trụ to lớn gần như không có cách nào tưởng tượng được. Trước hết, Đức Phật giảng Kinh Vô Lượng Thọ. Kế đó, giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cuối cùng, giảng Kinh A Di Đà. Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thật sự có, A Di Đà Phật cũng thật sự có.

Phải như thế nào mới đến được nơi đó?

Thứ nhất là phải thật sự tin tưởng.

Thứ hai, phải thật sự phát nguyện chịu sanh sang đó.

Thứ ba, chuyên niệm A Di Đà Phật. Chuyên niệm thì phải nhất loạt diệt sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nếu đời này chẳng thể sanh sang Tây Phương thì đời sau nhất định sẽ khổ hơn, vì chúng ta từ sáng đến tối suy nghĩ không ngừng.

Nếu nghĩ đến chuyện làm lợi cho chúng sanh thì ít mà làm chuyện tự tư tự lợi thì nhiều, tương lai nhất định sẽ bị khổ nhiều vui ít, càng lúc càng tệ hơn.

Sa Môn, Śramana là tiếng gọi chung người xuất gia trong các Tôn giáo ở Ấn Độ vào thời cổ, còn dịch là Cần Tức, có nghĩa là cần tu giới, định, huệ, tức diệt tham, sân, si, siêng tu giới, định, huệ, diệt dứt tham, sân, si.

Sau khi Phật Giáo được truyền đến Trung Quốc, Sa Môn liền trở thành danh xưng chuyên dùng để chỉ hàng xuất gia trong Phật Giáo, lại còn hàm nghĩa những vị xuất gia ấy đang còn thuộc trong giai đoạn học tập. Ngẫu Ích Đại Sư tự xưng là Sa Môn với ý nghĩa tự khiêm, chẳng dám xưng là Pháp Sư. Có người dùng chữ Đại Sư để gọi người xuất gia, sự thật là đã xưng hô vượt phận.

Bởi lẽ, các vị Đẳng Giác Bồ Tát như Quán Âm, Phổ Hiền, Đại Thế Chí v.v... và Di Lặc là vị sau này sẽ nối ngôi thành Phật mà vẫn còn xưng là Đại Sĩ. Đại Sư chính là tiếng tôn xưng Đức Phật.

Người đời nay chẳng hiểu rõ những kiến thức Phật Học thông thường, bèn dùng danh xưng ấy để gọi hàng phàm phu, gần như là chế nhạo họ. Ngẫu Ích là biệt hiệu của Đại Sư, Trí Húc là pháp danh xuất gia của Đại Sư.

Hai chữ nguyên phù là từ ngữ dùng để mở đầu một câu trong Văn Ngôn, nó là hư từ, chẳng có ý nghĩa gì hết. Phật là tiếng Phạn dịch âm, nói cho đủ là Phật Đà Da, Buddhaya, nghĩa là Giác Giả, người giác ngộ, do tôn trọng nên không dịch nghĩa.

Người Hoa thích đơn giản, chỉ chọn dùng chữ Phật. Người thật sự hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ thì gọi là Giác Giả. Vũ trụ là hoàn cảnh sống. Nhân sinh chính là bản thân con người.

Ai nhận biết chính mình?

Do đâu đến?

Tương lai sẽ đi về đâu?

Quá khứ không khởi đầu, tương lai không kết thúc. Nhỏ thì như gia đình của một cá nhân, lớn thì là xã hội, quốc gia, cho đến hư không pháp giới rộng lớn.

Nếu có thể thật sự hiểu rõ thì mới có thể làm chủ nó được, mới được đại tự tại, chẳng bị hoàn cảnh chi phối, đè nén. Thành Phật chính là thành tựu trí huệ viên mãn rốt ráo, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. Chư Phật là người triệt để hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, số nhiều đến vô lượng. Các Ngài đã làm được thì chúng ta cũng sẽ có thể làm được.

Ngẫu Ích Đại Sư giải thích pháp môn niệm Phật cho chúng ta nghe, nương theo phương pháp ấy để tu học thì trong một đời cũng sẽ có thể đạt đến thành tựu giống như Chư Phật, Bồ Tát.

Phật, Bồ Tát và Chư Tổ Sư, Đại Đức các đời quyết chẳng dối gạt, họ chẳng mong cầu điều gì nơi chúng ta thì dối gạt chúng ta để làm gì?

Vì thế, phải nên sanh lòng tin sâu đậm, đừng nghi ngờ những lời chỉ dạy của các Ngài. Phật Phật Đạo đồng, vô lượng Chư Phật đều từ bi, chân thành, thanh tịnh, nghĩ thương xót lũ mê muội. Chữ quần mê chỉ chín pháp giới, bao gồm Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.

Bồ Tát dịch nghĩa là giác hữu tình, nhưng giác chưa viên mãn, tối thiểu là vẫn còn có một phần sanh tướng vô minh, cho nên vẫn thuộc trong chín pháp giới. Phật dạy chúng ta dùng lý trí, chứ không dùng cảm tình. Do Phật từ bi thương xót hết thảy chúng sanh vô điều kiện, nên toàn tâm toàn ý chăm sóc chúng sanh, tùy theo căn cơ mà lập ra phương cách giáo hóa, chỉ dạy chúng sanh tu trì chánh pháp mãi cho đến khi thành Phật.

Mẫn niệm có nghĩa là từ bi. Nếu chẳng có tâm từ bi thì Phật sẽ chẳng có nguyên động lực, động lực ban đầu, động lực chính để giáo hóa chúng sanh.

Người thế gian nỗ lực làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là do danh và lợi thúc đẩy sau lưng. Phật, Bồ Tát đã chẳng tham danh, lại chẳng mong lợi, chỉ vì nghĩ thương xót hết thảy chúng sanh đang mê hoặc bèn tùy theo căn cơ mà lập cách giáo hóa.

Trong nội dung và phương pháp dạy học, do căn tánh, mê, ngộ, cách thức sanh sống và trình độ giáo dục của chúng sanh đều khác nhau, chẳng thể nào không tùy theo từng người mà lập ra cách giáo hóa.

Nói tới giáo hóa thì giáo là nói theo mặt nhân, hóa là nói theo mặt quả. Sau khi tiếp nhận sự chỉ dạy của Phật, ắt khí chất có biến hóa, trước kia là ngu si, nay thì thông minh, trước kia cảm thấy khổ não, nay cảm thấy sung sướng. Tông chỉ giáo dục của Phật đối với hết thảy chúng sanh đều giống hệt nhau, đều nhằm dạy cho chúng sanh viên mãn thành Phật.

Điều này được gọi là quy nguyên vô nhị, trở về nguồn thì không hai: Phương pháp tuy nhiều, nhưng mục tiêu chỉ có một. Tại Trung Quốc, từ thời Tùy Đường trở đi, Phật Giáo được chia thành mười tông phái đại thừa và tiểu thừa, cách nay đã một ngàn năm trăm năm. Người đời sau thường mang tư tưởng môn đình, cho pháp môn của mình tu là đúng, những pháp khác đều trật, nhưng Phật nói quy nguyên vô nhị, phương tiện đa môn. Xin đừng khen mình, chê người.

Lúc Phật tại thế, có người đến thưa hỏi, nhất định Phật sẽ chỉ dạy một phương pháp chánh xác khiến cho người ấy đạt được thành tựu viên mãn. Hiện thời, Phật đã khuất bóng, chỉ có thể nương theo Kinh Phật để tu học.

Kinh Điển giống như Bác Sĩ tùy theo từng bệnh nhân mà kê toa. Nếu toa thuốc không hợp căn bệnh, e rằng sẽ phát sanh hậu quả nghiêm trọng. Ngẫu Ích Đại Sư cho biết sở dĩ Đức Phật giới thiệu A Di Đà Kinh là do Đức Phật thấy cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi, không ai hỏi mà tự nói, chẳng phải nhằm chuyên nói với một loại người nào đó, mà nhằm nói với hết thảy chúng sanh thuở ấy và mai sau.

Từ xưa đến nay, người tu Tịnh Độ đạt được thành tựu đông nhất. Tịnh Độ là thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, có thể vượt cấp, không cần phải trải qua tiệm tu, tu dần dần theo thứ tự, có thể đốn siêu, nhanh chóng vượt lên, từ lớp một của tiểu học vượt thẳng lên lớp tiến sĩ, vượt qua năm mươi mốt địa vị Bồ Tát, nhưng phương pháp lại cực đơn giản, khiến người ta chẳng dám tin tưởng, rất chẳng thể nghĩ bàn.

Luân hồi trong lục đạo là do chính mình tạo, do mê hoặc mà tạo nghiệp. Tạo nghiệp ắt phải hứng chịu quả báo, quả báo thiện hay ác chẳng sai sót một mảy. Nếu muốn vượt thoát lục đạo thì đừng tạo nghiệp nữa. Chẳng tạo nghiệp rất khó. Chẳng mê hoặc càng khó hơn.

Thế nào gọi là nghiệp?

Nghiệp là cái quả của sự tạo tác. Sự có thiện và ác, nên nghiệp cũng có thiện và ác.

Nghiệp chia thành ba loại: Thân, miệng, ý. Thân thể tạo tác, miệng thốt ra lời lẽ, tâm khởi lên ý niệm, những tạo tác từ nơi thân và miệng là do ý điều khiển. Muốn vượt thoát luân hồi thì phải đoạn hoặc trước. Nghiệp nhân trong tam giới lục đạo chính là kiến hoặc và tư hoặc, hoàn toàn đoạn được chúng thì mới có thể thoát khỏi tam giới.

Chẳng thể làm được điều này ngay trong một đời. Nếu muốn hưởng phước báo trong cõi người, Cõi Trời thì sẽ dễ hơn, các vị Thánh Hiền thế gian và những nhà Tôn giáo đều có thể giúp con người thực hiện được điều đó, chứ vượt thoát luân hồi thì người thế gian không có cách nào thực hiện được. Vì thế, Đức Phật mới xuất hiện trong cõi đời nhằm tạo duyên cho chúng sanh gặp gỡ hòng đắc độ.

Pháp Môn niệm Phật là đới nghiệp vãng sanh, đới nghiệp thì có hy vọng thành tựu, chứ không đới nghiệp sẽ khó khăn đấy. Những pháp môn khác chưa hề có thuyết đới nghiệp.

Trước đây, đã có người nói: Thuyết đới nghiệp vãng sanh trong Tịnh Tông chẳng tìm được căn cứ nào trong Kinh Điển. Năm 1984, Cư Sĩ Trầm Gia Trinh thỉnh tôi đến New York giảng Kinh.

Lúc đổi máy bay ở Los Angeles, lão Cư Sĩ Châu Tuyên Đức ra phi trường đón tôi, vừa gặp mặt, cụ liền nói: Thưa Pháp Sư! Không xong rồi.

Có người nói trong pháp môn niệm Phật nếu đới nghiệp sẽ chẳng thể vãng sanh, tôi niệm Phật mấy chục năm chẳng phải là uổng phí hay sao?

Thái độ của cụ hết sức nghiêm trọng.

Tôi bảo: Đới nghiệp chẳng thể vãng sanh thì không cần phải sanh về đó nữa.

Nếu đới nghiệp chẳng thể vãng sanh thì Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chỉ trơ trọi một mình A Di Đà Phật, chúng ta đến đó để làm gì?

Văn Thù, Phổ Hiền, Đại Thế Chí, Quán Âm... các vị Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, đều là đới nghiệp.

Nếu chẳng đới nghiệp thì tại sao còn chia thành ba bậc chín phẩm vãng sanh vậy?

Cụ Châu nghe lời ấy rồi mới yên lòng. Ba Kinh Tịnh Độ được Cổ Đức gọi là vãng sanh Kinh. Sau này, các vị Tổ Sư lại đem phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của Kinh Hoa Nghiêm và chương Đại Thế Chí Bồ Tát niệm Phật Viên Thông của Kinh Lăng Nghiêm ghép vào sau ba Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ Phật thành ra Tịnh Độ Ngũ Kinh.

Trong Tịnh Độ Ngũ Kinh, nói tới pháp môn niệm Phật thì chia thành bốn loại:

1. Thật tướng niệm Phật.

2. Quán Tưởng niệm Phật.

3. Quán Tượng niệm Phật.

4. Trì Danh niệm Phật.

Đức Phật hết sức coi trọng Trì Danh niệm Phật. Trong Đại Bổn Vô Lượng Thọ Kinh và Tiểu Bổn A Di Đà Kinh, Đức Phật đều dạy chúng ta chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật. Không riêng mình Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là như thế mà hết thảy Chư Phật đều đồng thanh tán thán.

Niệm Phật rốt cuộc có chỗ nào hay?

Những người chẳng khế nhập sâu xa cảnh giới này, sẽ thật khó thể nói ra. Trong trước tác của Cổ Đức như các vị Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích, quả thật đã giảng rõ điều này tường tận, thấu triệt.

Đáng tiếc là chúng ta nghiệp chướng sâu nặng, đọc những sách ấy xong vẫn cứ y như cũ, chẳng thể sanh tâm thanh tịnh, vẫn cần phải được thiện tri thức chỉ dạy, giải thích, rồi chính mình phải nỗ lực tu hành thì mới đạt được lợi ích.

Nếu không, chẳng qua là gieo được một tí thiện căn trong tám thức điền mà thôi. Trong bốn thứ pháp môn niệm Phật, chuyên trì danh hiệu đơn giản, dễ hành nhất. Chuyên là chuyên nhất, chuyên tâm, trì là giữ gìn, chẳng để nó mất đi. Danh hiệu chính là sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật.

Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối, từ đầu năm đến cuối năm, chớ nên lìa khỏi câu Phật Hiệu này. Phương pháp là niệm sáu chữ hay bốn chữ, niệm lớn tiếng hay nhỏ tiếng, không cách nào chẳng được. Không niệm ra tiếng mà niệm thầm thì cũng được luôn. Cốt sao không gián đoạn, không xen tạp, không hoài nghi.

Thời gian bao lâu mới thấy được hiệu quả?

Tôi thưa cùng quý vị! Từ ba tháng đến sáu tháng sẽ thấy công hiệu, có thể tiêu trừ được một phần nghiệp chướng, cảm thấy đầu óc sáng suốt, thông minh hơn trước. Phiền não, ưu lự, vọng tưởng, vướng mắc đều bớt, tâm địa thanh tịnh. Hiểu lý luận hay không chẳng quan trọng, chỉ cần theo đúng pháp tu hành, chắc chắn sẽ thấy hiệu quả.

Cần phải có lòng tin vào giáo huấn của Cổ Thánh Tiên Hiền. Phật nói câu nào cũng đều chân thật, chỉ cần chân thành, tin tưởng khẩn thiết, thật sự phát nguyện, sẽ lập tức được bổn nguyện, oai thần của A Di Đà Phật ngấm ngầm gia trì.

Dùng nguyên tắc ấy niệm Phật thì khi công phu thành thục, nhất định sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Phước báo lớn nhất của con người trong thế gian chẳng phải là giàu có, trường thọ, mà phước báo chân chánh chính là khi lâm chung chẳng sanh bệnh, đầu óc tỉnh táo, biết sẽ đi về đâu, đấy là phước khí thật sự.

Trong những năm qua, tại Đài Loan, người ngồi mất hay đứng qua đời khoảng hai, ba chục người, còn lâm chung hiện tướng lành thì khoảng năm trăm người trở xuống.

Tại Nam Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai cũng có năm sáu vị. Cam lão thái thái có một người thân thích di dân sang Mỹ, tuổi đã cao, sống chung với con cái, ở nhà chăm sóc trẻ nhỏ và cơm nước. Có một hôm, sáng sớm cụ không thức dậy nấu bữa sáng, người nhà vào phòng cụ xem thì cụ ngồi xếp bằng trên giường vãng sanh rồi.

Kỳ lạ nhất là cụ đã may sẵn đồ tang cho cả nhà lớn bé, sắp đặt hậu sự nghiêm chỉnh, đủ thấy cụ biết trước lúc mất. Chính mắt Cam lão thái thái thấy chuyện này. Đời người trong cõi thế là một giấc mộng xuân, thời thời khắc khắc đều là trong mộng. Người thật sự giác ngộ mới chịu buông xuống.

Thế gian không có một pháp nào để được cả. Nếu thân có thể đạt được thì lẽ ra chẳng có suy, lão, bệnh, tử. Con người gặp gỡ nhau do duyên, có duyên tụ hội chớ mừng, khi duyên tan diệt, chớ buồn bã. Đấy là hiện tượng bình thường.

Thiền Tông tiếp dẫn người thượng thượng căn, chứ trung căn và hạ căn chẳng có phần. Ngay cả với người có căn tánh đại thừa, Thiền Tông vẫn còn cao lắm. Đối tượng của các tông phái thuộc Giáo Hạ, như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp Tướng, Tam Luận, là kẻ căn tánh Bậc thượng hay Bậc trung. Đại khái, người thượng căn lợi trí tu học thì mới có thành tựu.

Trung căn sẽ khác hẳn, còn hạ căn thì chẳng có phần. Chỉ có pháp môn này, ba căn thượng, trung, hạ, ông già bà cả không biết chữ cũng đều có thể tu được, cũng đều có thể chứng được. Trong Vãng Sanh Truyện có chép ông Vương Đả Thiết ở Hành Châu là thợ rèn, một nhà bốn miệng ăn, cuộc sống rất khổ.

Có một vị xuất gia đi qua cửa nhà ông ta. Vương Đả Thiết liền mời Sư vào nhà tiếp nhận cúng dường và thưa hỏi phương pháp lìa khổ, được vui. Pháp Sư dạy ông ta niệm Phật. Ông ta y giáo phụng hành, cứ rèn sắt một búa liền niệm Phật một tiếng.

Suốt ba năm như thế, một hôm, ông ta đọc kệ:

Đinh đinh, đang đang

Cửu luyện thành cang

Thái bình tương cận

Ngã vãng Tây Phương.

Beng beng, bang bang

Luyện mãi thành gang

Thái bình sắp tới

Ta về Tây Phương.

Nói xong, đập xuống một búa, đứng sững qua đời. Năm Dân Quốc năm mươi bảy, 1968, tại làng Tướng Quân ở Đài Nam có một bà cụ đứng sững qua đời.

Năm ngoái, khi tôi giảng Kinh ở Cao Hùng có nhắc tới chuyện này, có mấy vị cùng nói họ thật sự biết chuyện này. Chuyện vãng sanh của lão cư sĩ Lý Tế Hoa thuộc Đài Bắc Liên Hữu niệm Phật Đoàn càng chẳng thể nghĩ bàn. Cụ giảng khai thị tại niệm Phật Đoàn, giảng trong một tiếng rưỡi, buốt lòng rát miệng khuyên mọi người niệm Phật.

Giảng xong, cụ nói: Tôi sắp trở về nhà. Cụ bước xuống bục giảng, ngồi trên ghế mây nơi phòng khách vãng sanh. Hai tháng trước đó, cụ đã có dự cảm, hễ lúc nào rảnh rỗi bèn đến thăm bạn bè, tựa hồ có ý giã biệt.

Có một lần, cụ cùng vợ ngồi xe ba bánh đi dự Pháp Hội, cụ bảo vợ: Nếu tôi vãng sanh, bà có cảm thấy trống vắng hay không?

Bà vợ bảo: Nếu ông vãng sanh là chuyện quá tốt đẹp, tôi chẳng cảm thấy trống vắng đâu. Điều này chứng tỏ cụ biết trước lúc mất. Niệm Phật chia thành niệm và sự niệm. Lý niệm là đạo lý, phương pháp, cảnh giới đều hiểu rõ ràng, đương nhiên sẽ chuyên tâm niệm. Sự niệm là chưa hiểu rõ lý luận, nhưng chuyên tâm niệm Phật. Sự niệm mà niệm đến mức tâm địa thanh tịnh, trí huệ tự khai thì cũng có thể đạt đến Lý niệm.

Từ xưa đến nay, hoằng dương Phật Pháp thì Kinh Điển phổ biến nhất chính là Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Do vậy, Kinh này được chú giải với số lượng rất nhiều. Trong số ấy, có giá trị nhất chính là bộ Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì Đại Sư. Ngài Ngẫu Ích tôn xưng Ngài Liên Trì là Vân Thê Hòa Thượng.

Trong thời Ngài Ngẫu Ích, Ngài Liên Trì đã viên tịch, nhưng trước tác của Ngài vẫn còn đó. Ngài Ngẫu Ích coi Ngài Liên Trì như thầy, học tập theo giáo huấn của Ngài Liên Trì, tức là như ta thường gọi là tư thục đệ tử, giống như Mạnh Tử bên Nho Gia là tư thục đệ tử của Khổng Tử.

Ngài Liên Trì là Tổ Sư đời thứ tám của Tịnh Độ Tông, Ngài Ngẫu Ích là Tổ Sư đời thứ chín. Ngài Liên Trì viết bộ Sớ Sao để chú giải Kinh Di Đà. Trước hết, viết lời Sớ, Sớ nhằm giải thích Kinh. Sau đấy, cảm thấy lời Sớ quá sâu, sợ người đời sau đọc không hiểu. Do vậy, Ngài lại viết lời Sao, Sao nhằm giải thích Sớ. Tại Đài Loan, bộ Sớ Sao này được lưu hành rất rộng.

Hiện thời, chúng tôi in chung Sớ Sao và bộ Di Đà Sớ Sao Diễn Nghĩa do Pháp Sư Cổ Đức biên soạn thành một bản. Diễn Nghĩa nhằm chú giải Sớ Sao. Pháp Sư Cổ Đức vừa là đồ đệ vừa là thị giả của Ngài Liên Trì. Trước tác của Ngài Liên Trì được lưu truyền trong đời sau là nhờ công sức của Pháp Sư Cổ Đức. Ở Đài Bắc, tôi đã từng giảng bộ Diễn Nghĩa một lần, thâu âm thành ba trăm ba mươi lăm cuốn băng cassettte.

Tác phẩm này nội dung phong phú, được Ngài Ngẫu Ích xưng tụng là bác đại tinh thâm, rộng lớn, tinh vi, sâu xa thật xứng đáng.

Ngài U Khê là Pháp Sư Truyền Đăng ở Chùa Cao Mân tại U Khê, núi Thiên Thai. Ngài Ngẫu Ích dùng tên đất để gọi vị này nhằm biểu lộ lòng tôn kính. Vị này cũng là huynh đệ của Sư Phụ Ngài Ngẫu Ích nên Ngài Ngẫu Ích gọi Ngài U Khê là sư bá.

Ngài U Khê tuổi già chuyên Tu Tịnh Độ, mỗi lần giảng Kinh Di Đà đều cảm nhạc Trời vang rền không trung, đại chúng đều nghe tiếng. Ngài soạn bộ Viên Trung Sao để chú giải Kinh A Di Đà, dùng Tam Quán Chân Giả Trung của Tông Thiên Thai để phô bày ý nghĩa, giữ lấy ý nghĩa trung đạo viên dung.

Sao nhằm giải thích lời Sớ, lời Sớ do Pháp Sư Đại Hựu viết dưới thời Nguyên, có tên là A Di Đà Kinh Lược Giải. Bộ Viên Trung Sao này không được lưu hành rộng rãi, Ngài Ngẫu Ích bảo bộ sách ấy cao, thâm, hồng, bác, văn phú, nghĩa phồn, hoặc bất tiện sơ cơ, cao, sâu, mênh mông, bát ngát, văn nhiều, nghĩa lắm, có lẽ chẳng thuận tiện cho hàng sơ cơ.

Nhằm lợi lạc hàng sơ cơ, Ngài Ngẫu Ích viết bộ Yếu Giải này, có kiến giải độc đáo. Vì thế, nội dung cũng chẳng cần phải giống với hai vị Liên Trì Đại Sư và U Khê Đại Sư. Hai câu trắc khán thành phong, hoành khán thành lãnh là mượn ý từ bài thơ do Tô Đông Pha sáng tác khi du ngoạn Lô Sơn, tỉnh Giang Tây.

Bài thơ ấy như sau:

Hoành khán thành lãnh, trắc thành phong

Viễn cận cao đê các bất đồng

Bất thức Lô Sơn chân diện mục

Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.

Tạm dịch:

Nhìn dọc thành đỉnh, ngang thành rặng

Cao, thấp, gần, xa vốn khác nhau

Chẳng biết Lô Sơn chân diện mục

Cốt sao thân ở tại non này.

Mượn hai câu thơ này với ngụ ý: Ngài đã từng thấy chân diện mục, diện mạo thật sự của Lô Sơn, đã từng đích thân chứng được cảnh giới Tây Phương Tịnh Độ. Theo phương cách giảng Kinh trong Tông Thiên Thai, trước khi giảng Kinh sẽ giảng huyền nghĩa.

Huyền nghĩa chính là trong một thời gian rất ngắn có thể giới thiệu một cách tổng hợp những ý nghĩa chánh yếu trong một bộ Kinh, khiến cho thính chúng trước hết có được một khái niệm, rồi sau đó tiếp tục nghe Kinh Văn sẽ dễ thấu hiểu.

Tông Thiên Thai dùng năm đoạn để giảng rõ cương yếu của Kinh, gọi là ngũ trùng huyền nghĩa:

1. Giải thích tựa đề bản Kinh, Thích Danh.

2. Biện Thể, biện định thể, tức là chỉ rõ chỗ căn cứ để lý luận của Kinh này, vì nếu chẳng hiểu rõ ý nghĩa, sẽ khó thể tạo dựng tín tâm.

3. Minh Tông, tức là nói rõ tông chỉ, cương lãnh và phương pháp tu học trong Kinh này.

4. Luận dụng, luận định về dụng, tức Kinh có tác dụng ở chỗ nào?

Tông là tu nhân, còn dụng là kết quả.

5. Phán giáo: Tổ Sư, Đại Đức chỉnh lý, phân loại Kinh Phật, dựa theo thứ tự sâu hay cạn, khế hợp căn cơ các loại để phán định một bộ Kinh thuộc về giáo pháp nào.
 

III. GIẢI THÍCH HUYỀN NGHĨA CỦA KINH
 

3.1. THÍCH DANH
 

Giải Đệ nhất, thích danh. Thử Kinh dĩ năng thuyết, sở thuyết nhân vi danh. Phật giả, thử độ năng thuyết chi giáo chủ, tức Thích Ca Mâu Ni. Thừa đại bi nguyện lực, sanh ngũ trược ác thế, dĩ tiên giác giác hậu giác.

Vô pháp bất tri, vô pháp bất kiến giả dã. Thuyết giả, duyệt sở hoài dã. Phật dĩ độ sanh vi hoài, chúng sanh thành Phật cơ thục, vị thuyết nan tín pháp, linh cứu cánh thoát, cố duyệt dã. A Di Đà, sở thuyết bỉ độ chi Đạo Sư.

Dĩ tứ thập bát nguyện, tiếp tín nguyện niệm Phật chúng sanh, sanh Cực Lạc Thế Giới, vĩnh giai bất thoái giả dã. Phạn ngữ A Di Đà, thử vân vô lượng thọ, diệc vân vô lượng quang.

Yếu chi, công đức, trí huệ, thần thông, đạo lực, y chánh, trang nghiêm, thuyết pháp, hóa độ, nhất nhất vô lượng dã. Nhất thiết kim khẩu, thông danh vi Kinh. Đối thượng ngũ tự, thị thông biệt hiệp vi đề dã.

Giáo, Hạnh, tam, các luận thông biệt. Quảng như Thai tạng sở minh.

Giải: Thứ nhất là giải thích tên Kinh. Kinh này dùng người nói và người được nói để đặt tên. Phật là Đức Giáo Chủ nói Kinh trong cõi này, tức Thích Ca Mâu Ni Phật. Do đại bi nguyện lực, sanh trong đời ác ngũ trược, dùng tiên giác để giác ngộ kẻ hậu giác, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng thấy.

Thuyết là thỏa lòng mong mỏi. Phật mang chí nguyện độ sanh, căn cơ thành Phật của chúng sanh đã chín muồi, bèn giảng cho họ biết pháp khó tin, khiến họ được giải thoát rốt ráo, cho nên Phật vui sướng. A Di Đà, là đấng Đạo Sư của cõi đang được nói đến.

Ngài dùng bốn mươi tám nguyện tiếp độ chúng sanh tín nguyện niệm Phật sanh về Thế Giới Cực Lạc, vĩnh viễn đạt đến địa vị bất thoái. Tiếng Phạn là A Di Đà, cõi này dịch là Vô Lượng Thọ, còn dịch là Vô Lượng Quang. Nói tới những điểm trọng yếu thì công đức, trí huệ, thần thông đạo lực, sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo, thuyết pháp, hóa độ, mỗi mỗi đều vô lượng.

Hết thảy những gì do kim khẩu của Đức Phật nói ra đều gọi chung là Kinh. Chữ Kinh đem phối hợp với năm chữ trước, tức Phật Thuyết A Di Đà là đem ghép cả Thông lẫn Biệt thành tựa đề Kinh.

Ba món Giáo, Hạnh, mỗi thứ đều luận định Thông và Biệt, giảng giải chi tiết thì như trong Kinh Sách của Tông Thiên Thai đã giảng. Thích Ca Mâu Ni Phật nương theo đại bi nguyện lực, sanh trong đời ác năm trược, rộng độ hữu tình.

Vì sao con người phải sanh vào thế gian?

Lúc tôi mười ba, mười bốn tuổi thường nghĩ đến vấn đề này, có lúc nghĩ cả mấy tháng, nhưng chẳng tìm được câu trả lời.

Phật dạy: Nhân sanh vi thù nghiệp nhi lai. Đời người là do đền trả cái nghiệp mà sanh ra. Trong quá khứ làm lành thì đời này hưởng phước. Nếu không, chuyện gì cũng trái ý, nhân quả báo ứng chính là chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ sự thật này thì sẽ tâm an lý đắc, chẳng còn oán Trời trách người, tâm liền an ổn. Tâm an, ắt định, định sanh ra huệ.

Từ đấy, bỏ ác, hướng lành, thay đổi tương lai. Tiên Sinh Viên Liễu Phàm viết Liễu Phàm Tứ Huấn nhằm xiển minh phương pháp sửa đổi vận mạng hết sức tường tận. Ông ta cả đời sửa lỗi, đổi mới, đoạn ác, tu thiện.

Ông ta đã thay đổi vận mạng của đời mình khác với lời dự đoán của Khổng lão Tiên Sinh từ Vân Nam tới, cụ Khổng là một người đắc chánh truyền phép bói Hoàng Cực Số của Thiệu Tử, Thiệu Khang Tiết.

Trong nhà Phật, hữu cầu tất ứng. Cầu là mong cầu đúng lý, đúng pháp thì đều có thể cầu được. Nếu cầu chẳng được thì là do chính bản thân ta có chướng ngại. Điều mong cầu trong sách Di Đà Yếu Giải này chính là cầu thành Phật.

Ai cầu thành Phật thì cũng đều có thể đạt được, chứ tiếng tăm, lợi dưỡng, công danh, phú quý trong thế gian thì có khác gì lông gà, vỏ tỏi?

Cầu đúng lý, đúng pháp thì sẽ có thể chuyển biến cái thân nghiệp báo thành cái thân nguyện lực. Trước kia, thân nghiệp báo trong mỗi niệm đều tính toán vì bản thân, từ nay trở đi, mỗi niệm đều vì hết thảy chúng sanh, niệm niệm vì Phật Pháp.

Phật Pháp là nền giáo dục viên mãn chí thiện trong thế gian. Nếu chúng sanh có cơ duyên tiếp nhận Phật Pháp thì sẽ đều có thể chuyển biến nghiệp lực thành nguyện lực.

Vào ba ngàn năm trước, khi Đức Phật giảng Kinh này, nếu chẳng phải là bậc đại trí huệ sẽ rất khó thể thấu hiểu được. Ngày nay, giảng bộ Kinh này, đại đa số mọi người đều nhận thấy giống như vậy.

Đức Phật nói cõi này là ngũ trược ác thế, hiện thời nhìn lại, chẳng sai chút nào. Trược là ô nhiễm. Hiện thời, tình hình ô nhiễm nghiêm trọng, các nước đều đề xướng bảo vệ môi trường.

Ác là ác nghiệp, tâm con người chẳng lành: Thân phạm giết, trộm, dâm. Miệng phạm nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt. Ý phạm tham, sân, si. Xã hội hiện tại tràn ngập mười điều ác, Đức Phật do đại từ đại bi nguyện lực mà sanh vào thời đại này, nhằm cứu vớt chúng ta thoát lìa biển khổ.

Phật là tiên giác, người đã giác ngộ trước, triệt để hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và Vũ Trụ, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng thấy, dùng tiên giác để giác ngộ hậu giác, kẻ sẽ giác ngộ sau này.

Bồ Tát là hậu giác. Nếu ai có thể thật sự nương theo Phật Pháp để tu hành thì là Bồ Tát, nhất là đối với pháp môn này. Trong tựa đề Kinh Vô Lượng Thọ đã ghi Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ, cho thấy pháp môn niệm Phật là pháp môn tu hành của hàng Đại Thừa Bồ Tát. Phật ôm ấp chí nguyện độ sanh, niệm niệm giúp đỡ chúng sanh mau chóng thành Phật hòng thỏa mãn tâm nguyện.

Nếu nguyện lực của chúng ta và nguyện lực của Phật giống nhau thì sẽ có thể chuyển nghiệp lực thành nguyện lực. Ý niệm vừa xoay chuyển thì trước kia là chúng sanh trong lục đạo, ngay lập tức liền biến thành pháp thân Đại Sĩ. Chúng ta học Phật cũng phải giữ tấm lòng vì chúng sanh, đề cao, giới thiệu nền giáo dục viên mãn này cho hết thảy chúng sanh. Có như vậy thì mới đồng nguyện, đồng đức, đồng tâm với Chư Phật.

Cơ duyên của chúng sanh chín muồi, nên Đức Phật giới thiệu với chúng sanh pháp môn này. Trong phần Phát Khởi Tự của Kinh Vô Lượng Thọ, vừa mở đầu, vẻ mặt Đức Phật rạng rỡ, Tôn Giả A Nan từ trước đến nay chưa hề trông thấy như thế, là vì cơ duyên thành Phật của chúng sanh đã đến rồi, Phật đặc biệt hoan hỷ.

Nói cơ duyên chín muồi nghĩa là họ vừa nghe liền hiểu ngay, vừa nghe liền tin ngay, vừa nghe liền khai ngộ. Người này trong đời này sẽ liền có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, đạt được giải thoát rốt ráo, cái thân trong hiện tại sẽ gọi là tối hậu thân, thân sau cùng.

Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì đều là đi ngay trong lúc sống, chứ không phải chết rồi mới đi về đó. Đây là pháp môn bất tử, còn gọi là pháp môn thành tựu ngay trong khi còn sống. Người công phu giỏi sẽ biết trước lúc mất, chính mình tự biết, vui vẻ ra đi.

Trong lời khai thị cho Phật Thất, Pháp Sư Đàm Hư có nói trong đời Ngài đích thân thấy hai mươi mấy người vãng sanh, còn nghe kể lại thì chẳng thể kể xiết.

Người cơ duyên chín muồi là thiện căn đã tu trong quá khứ vô lượng kiếp tới nay chín muồi, hiện thời được mười phương hết thảy Chư Phật Như Lai ngấm ngầm gia trì, khiến cho người ấy tiếp xúc pháp môn này liền có thể lập tức hiểu, tin, nguyện, hành. Chúng ta nhất định phải quý tiếc cơ hội được nghe pháp trong thời khắc này, hạ quyết tâm niệm Phật, chớ nên bỏ uổng cuộc đời này.

Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật đã dạy: Ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan, ta trong đời ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó.

Phật Thích Ca chính là vị Phật do tu pháp môn niệm Phật mà thành Phật, Ngẫu Ích Đại Sư nhắc nhở chúng ta điều này, chúng ta mới đột nhiên liễu giải.

A Di Đà Phật là Bậc Đạo Sư trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Tây Phương Cực Lạc Thế Giới được hết thảy Chư Phật Như Lai trong mười phương Thế giới ca ngợi.

Chư Phật có cùng một đại nguyện, tức là độ chúng sanh thành Phật Đạo. Phật Phật đạo đồng, đều nhận thấy chúng sanh khó độ, đồng thời biết Tây Phương A Di Đà Phật có pháp môn thuận tiện là niệm Phật, thích hợp khắp ba căn, thâu tóm độn căn lẫn lợi căn. Do vậy, Chư Phật đều đề cao, giới thiệu Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của A Di Đà Phật với những chúng sanh đang được các Ngài hóa độ.

Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng ra ngoài thông lệ ấy, nói ba Kinh Tịnh Độ nhằm khuyên chúng ta sanh về Tây Phương. Đã thế, pháp môn sanh về Tây Phương lại cực đơn giản, chỉ cần tín nguyện niệm Phật là được, thật thà niệm một câu A Di Đà Phật là được rồi. Khi lâm chung, Phật nhất định đến tiếp dẫn, đấy là bổn nguyện của Ngài.

Trong hết thảy Cõi Nước, hết thảy các pháp môn đều là khi tiến, khi lùi, chỉ riêng pháp môn niệm Phật là sau khi sanh về Tây Phương, chỉ có lên lớp, chứ không sụt xuống, bất quá là tiến nhanh hay chậm mà thôi.

Có ba thứ bất thoái chuyển:

1. Vị bất thoái: Thánh Nhân tiểu thừa chứng đến Sơ quả, chẳng lui sụt trở lại địa vị phàm phu, nhưng thời gian vượt lên những địa vị cao hơn rất dài.

2. Hạn bất thoái: Bồ Tát đại từ đại bi giáo hóa chúng sanh, chẳng còn lui sụt xuống tiểu thừa.

3. Niệm bất thoái: Niệm niệm hướng đến vô thượng bồ đề, chính là pháp thân Đại Sĩ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân.

4. Niệm Phật sanh về Tây Phương liền chứng trọn vẹn ba thứ bất thoái, đúng là pháp khó tin.

Phải hiểu rõ ràng hai chữ công đức. Công là công phu tu hành, đức là quả báo. Cày bừa một phần thì thâu hoạch một phần, cày bừa là công, thâu hoạch là đức. Lợi ích chúng sanh là công, trưởng dưỡng bồ đề là đức. Chữ đức có cùng ý nghĩa với chữ đắc trong đắc thất, được, mất.

Ví dụ như: Trì giới là công, nhất định sanh ra định, định là đức. Tu định là công, nhất định khai huệ, khai trí huệ là đức. Trí huệ đã mở mang sẽ phá vô minh, đoạn phiền não, thành tựu vô thượng bồ đề Niết Bàn. Công đức khác phước đức, phước đức chỉ có thể đạt được phước báo trong Cõi Trời, cõi Người, chẳng thể vượt thoát luân hồi.

Lương Vũ Đế là đệ tử kiền thành của nhà Phật, trong thời gian làm Vua, ông ta đã dựng bốn trăm tám mươi tòa Tự Viện, độ mấy chục vạn người xuất gia.

Đạt Ma Tổ Sư của Thiền Tông đến Trung Quốc gặp mặt Lương Vũ Đế, Vua có ý khoe khoang, nói: Trẫm dựng chừng đó Chùa Miếu, độ bao nhiêu Tăng Chúng, công đức có to lớn hay không?

Tổ Đạt Ma nói: Trọn chẳng có công đức gì. Kết quả, nói năng không hợp ý, Tổ Đạt Ma lánh xa, sang Chùa Thiếu Lâm nhìn vách suốt chín năm. Nếu thuở ấy, Lương Vũ Đế hỏi Tổ Đạt Ma, phước đức của Trẫm lớn hay nhỏ, Tổ Đạt Ma nhất định nói phước đức vô lượng vô biên.

Trong Đàn Kinh, Lục Tổ Đại Sư cũng có nói: Sanh tử đại sự, phước chẳng thể cứu được. Không có cách nào ban công đức cho người khác, còn phước đức có thể trao cho người khác. Thần thông là năng lực. Thông là thông đạt, Thần là thần kỳ chẳng thể lường. Chữ đạo lực chỉ công phu tu dưỡng, trong Phật Pháp gọi nó là giới định huệ.

Y báo là sự thụ hưởng trong hoàn cảnh sống, chánh báo là thân thể của chính mình. Trang nghiêm là chân, thiện, mỹ, huệ. Người giỏi thuyết pháp có phương pháp dạy học rất khéo léo, khiến cho người nghe vui vẻ tiếp nhận. Hóa độ là giúp cho chúng sanh biến đổi khí chất, hóa phàm thành Thánh. Những thứ vừa nói trên đây đều là mục tiêu tối cao trong sự tu học Phật Pháp.

Phàm những pháp do chính kim khẩu Đức Phật nói ra đều được gọi là Kinh. Thật ra, Kinh Phật do năm loại người nói ra. Những điều do người khác nói ra, nếu phù hợp khít khao với chân tướng sự thật, được Phật chấp nhận, thì cũng được coi là giống như Phật nói.

Trong nhà Phật nói tới Pháp Ấn thì Ấn biểu thị cho sự tin tưởng. Công văn của quan phủ có đóng cái ấn to lên, sẽ được công nhận là có hiệu lực. Hết thảy pháp đại thừa dùng thật tướng làm Pháp Ấn. Chẳng phải do Phật nói, nhưng nội dung những lời nói ấy cũng là chân tướng sự thật thì cũng giống như do Đức Phật nói.

Giáo, hạnh, lý tam, các luận thông biệt, quảng như Thai Tạng sở minh: Đối với giáo, hạnh, lý, Ngẫu Ích Đại Sư không giảng tường tận, là vì trong bộ Sớ Sao của Ngài Liên Trì và bộ Viên Trung Sao của Ngài U Khê đã giảng rất tường tận.

Ngoài ra, những Kinh Sách của Tông Thiên Thai cũng đều có thể dùng để tham khảo. Giáo là tài liệu dạy học, hết thảy Kinh Điển nhà Phật chính là sách giáo khoa. Nội dung Kinh Phật ắt có đạo lý thích hợp cho từng tầng cấp, từng địa phương, thích hợp với nhu cầu của chúng sanh trong từng thời đại đó gọi là lý.

Ngoài lý ra, ắt phải có phương pháp để nương theo lý mà tu hành, nhằm chứng tỏ: Hễ nương theo đó để hành thì trong tương lai nhất định có thể đạt được, đó gọi là hạnh.

A Di Đà Phật!

***