Thuaàn tònh thuaàn thieän
Phöôùc hueä song tu

hoathuongtinhkhong.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP BA

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP BA
 

Trước tiên chúng tôi xin đọc một vài câu Kinh Văn để đối chiếu xem.

Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ Chi Đức, cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung. Du bộ Thập Phương hành quyền phương tiện, nhập Phật Pháp Tạng, cứu cánh bỉ ngạn.

Tới đây là một đoạn nhỏ từ trong Kinh Văn. Chúng ta có thể thấy rõ đại chúng ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đều là tu hạnh Phổ Hiền, tu hạnh Phổ Hiền tức là Phổ Hiền Bồ Tát. Cùng một đạo lý, nếu tu hạnh Quán Âm thì người này là Quán Thế Âm Bồ Tát. Tu hạnh Địa Tạng thì người đó là Địa Tạng Bồ Tát, điều này quý vị nhất định phải hiểu rõ, phải minh liễu.

Đức Hiệu của Bồ Tát là đại biểu cho một pháp môn, Phổ Hiền Bồ Tát là trong Kinh Hoa Nghiêm. Y theo Kinh Hoa Nghiêm tu hành đây là hạnh Phổ Hiền.

Như vậy, Quán Thế Âm Bồ Tát có ba bộ Kinh, ba bộ Kinh này không phải độc lập, là phụ thuộc vào Đại Kinh: Bộ thứ nhất là Quán Tự Tại Bồ Tát Chương trong Kinh Hoa Nghiêm, trong phần này là Thiện Tài Đồng Tử tham vấn Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát vì Thiện Tài Đồng Tử nói.

Bộ thứ hai, trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển thứ sáu vừa mở đầu là Quán Thế Âm Bồ Tát nhĩ căn Viên Thông Chương.

Bộ thứ ba là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm trong bộ Kinh Pháp Hoa. Nếu y theo ba bộ Kinh này tu hành thì người này tu theo pháp môn Quán Âm, họ tức là Quán Thế Âm Bồ Tát.

Họ là một vị sơ phát tâm Quán Âm Bồ Tát chúng ta thường thấy Tây Phương Tam Thánh, vị đứng bên cạnh A Di Đà là Quán Âm Bồ Tát. Đó là Đẳng giác Quán Âm Bồ Tát địa vị kém rất xa, một bên là sơ phát tâm cũng như học sinh đi học ở trường. Một người là lớp nhỏ ấu trĩ, một người là đại học đã là bác sĩ, dù không giống nhau nhưng đều là học sinh, đều học một pháp môn này.

Cùng một đạo lý, tu học pháp môn Phổ Hiền thì gọi Phổ Hiền Bồ Tát, chúng ta niệm Phật, lập định chí nguyện, trong một đời quyết định cầu sanh Tịnh Độ, như vậy có thể nói hiện tại anh là lớp nho nhỏ của lớp Phổ Hiền, lớp nho nhỏ của lớp ấu trĩ.

Một khi vừa sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, chúng ta biết rằng phiền não chúng ta chưa đoạn, chân chân thật thật đới nghiệp vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Đây là hạ hạ phẩm vãng sanh, hạ hạ phẩm tức là lớp một, so với lớp nho nhỏ của chúng ta cao hơn nhiều, đây là lớp một của Phổ Hiền Bồ Tát.

Tại Tây Phương thế giới, Phổ Hiền Bồ Tát có bao nhiêu đẳng cấp?

Quý vị phải biết có năm mươi hai đẳng cấp, giống như lớp một, lớp hai lớp ba, đến lớp năm mươi hai mới tốt nghiệp. Tốt nghiệp thì thành Phật, cho nên có năm mươi hai giai cấp. Tất cả đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Nơi đó đích thực là pháp giới của Phổ Hiền Bồ Tát, đây là tối thù thắng bất khả tư nghì.

Thế Tôn, trong Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta Bồ Tát nếu không tu Phổ Hiền hạnh thì không thể viên thành Phật Đạo. Viên thành Phật Đạo tức là chứng được Viên giáo Phật Quả, điều này cũng nói rõ nếu không phải tu hạnh Phổ Hiền. Nếu theo cách nói của Tông Thiên Thai, anh có thể chứng được Phật Quả của Tạng giáo, Phật Quả của thông giáo, Phật Quả của Biệt giáo, còn Viên giáo không cách chi chứng đắc được.

Viên giáo nhất định phải tu hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền tức là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Phổ Hiền Bồ Tát trong phần cuối của Đại Kinh, đem việc tu hành làm một tổng quy nạp, cũng là tổng cương lĩnh tu học của Bồ Tát, tổng cộng có mười điều, chúng ta gọi nó là Thập đại nguyện vương.

Như vậy, ở chỗ này đã nói Hàm Cộng Tuân Tu Phổ Hiền Đại Sĩ Chi Đức cương lĩnh tu hành của Phổ Hiền Bồ Tát, chúng tôi cũng phải làm một cuộc giới thiệu đơn giản:

Điều thứ nhất là Lễ kính Chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường… cho đến điều thứ mười phổ giai hồi hướng. Tôi tin rằng mười nguyện này rất nhiều vị đồng tu đều quá quen thuộc. Bởi vì trong khóa tụng sáng tối đều có, mỗi ngày đều tụng, tụng rất thuộc.

Tuy tụng rất thuộc, nhưng hàm nghĩa của mười điều này thì không hiểu rõ, thì nói chi đến tu hành, ngay trong đó nói những gì cũng không cách chi nói được, như thế làm sao có thể nói là có thể tu hạnh Phổ Hiền.

Phổ Hiền Bồ Tát cùng với một số Bồ Tát, đều tu lễ kính, một số Bồ Tát cũng lễ kính Chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát cũng lễ kính Chư Phật, chúng ta lễ kính Chư Phật.

Như vậy thì rốt ráo sai biệt ở chỗ nào?

Sai biệt ở tâm cảnh khác nhau, cái tâm của chúng ta có phân biệt, có chấp trước, một số Bồ Tát tuy so với chúng ta công phu có phần cao thâm hơn nhiều, nhưng tâm của họ chẳng phải chân chánh thanh tịnh. Nói một cách khác, họ vẫn còn phân biệt chấp chước vi tế hơn chúng ta.

Do đó, họ không phải là hạnh Phổ Hiền. Tâm cảnh của hạnh Phổ Hiền nhất định phải phù hợp với đề Kinh của bổn Kinh là Thanh Tịnh bình đẳng giác.

Tâm thanh tịnh, trong tâm một tơ hào tạp nhiễm cũng không có, tâm bình đẳng sanh Phật bình đẳng, vạn pháp bình đẳng trong Kinh Hoa Nghiêm chỗ nói tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí đây là vạn pháp bình đẳng. Phổ Hiền Bồ Tát dùng cái tâm này để tu cho nên Ngài có thể viên thành Phật đạo.

Do đây có thể biết, thanh tịnh bình đẳng giác là tổng nguyên tắc, là tổng cương lĩnh của sự tu hành. Phổ Hiền Bồ Tát Thập Nguyện là điều mục tu hành. Cũng là nói, thực hiện vào trong sinh hoạt hằng ngày. Trong tất cả sự vật, chúng ta phải làm cách nào để tu thanh tịnh bình đẳng giác. Như vậy tâm địa thanh tịnh thì tâm cung kính tất sẽ viên mãn.

Tâm địa không thanh tịnh thì tâm cung kính làm sao có thể viên mãn?

Lễ tiết trong nhà Phật chúng ta mọi người gặp nhau biết chấp tay, chấp tay là ý nghĩa gì. Chấp tay đại biểu nhất tâm, bình thường bàn tay của chúng ta các ngón tay chia rời ra.

Đây là tán loạn, biểu thị cho vọng niệm rất nhiều, làm thế nào để biểu thị cung kính?

Tất cả vọng niệm đều dập tắt, hợp nhất lại, nhất tâm, nhất tâm. Nhất tâm là cung kính. Cho nên quý vị phải biết, tâm thanh tịnh là cung kính, tâm bình đẳng là cung kính, tâm giác ngộ là cung kính. Tất cả đều là tu thanh tịnh bình đẳng giác. Đối với người cung kính, đối với sự cung kính, đối với vật cung kính. Chỗ này quý vị phải đặc biệt lưu ý.

Cách lễ kính này không phải khi gặp người thì gật đầu lễ bái, nếu tôi như vậy người đó sẽ trở thành thần kinh, không bình thường mất. Trên đường phố người nhiều như vậy, gặp ai cũng gật đầu, gật hoài cũng không hết, làm gì có đạo lý như vậy. Chữ kính đây là kính ở trong tâm.

Còn về mặt sự thì sao?

Về mặt sự phải không đi ngược với pháp thế gian. Chỗ gọi là Phật Pháp tại thế gian, bất thoại thế gian pháp, người thế gian dùng lễ tiết gì thì chúng ta dùng lễ tiết đó, phải hằng thuận chúng sanh tuỳ hỷ công đức đây đều là trong thập nguyện chỗ nói đến.

Tỉ như trước đời Nhà Thanh thời đại của Vua chúa, lễ cung kính nhất là ba cái quỳ, chín cái khấu đầu. Hiện nay quý vị xem hát có thể thấy được, trong những vở tuồng cổ trang anh có thể thấy được lễ tiết của thời đó.

Còn lễ tiết của người thời nay thì sao?

Lễ tiết cung kính nhất là ba cái cúc cung, chúng ta đang đối diện với người thời nay cho nên chúng ta lễ kính nhất là ba cái cúc cung là đủ rồi, là lễ kính nhất. Tuy nhiên, thông thường chúng ta chỉ dùng lễ chào khi gặp mặt. Gật đầu, hiện nay gật đầu cũng là lễ kính, nếu anh hành lễ ba cúc cung thì người ta lại cảm thấy đầu óc của anh có vấn đề, bất bình thường.

Cho nên, lễ tiết phải tùy tục, tâm cung kính là chân thành, đối người có ý kính nể phải có kính tâm đây là hạnh Phổ Hiền.

Đối với sự, làm thế nào tu lễ kính?

Sự việc phải tận tâm tận lực, thật lòng phụ trách làm cho tốt, đây là đối sự lễ kính. Bất luận là chuyện lớn, chuyện nhỏ, bất luận là chuyện của chính mình hoặc là chuyện của công, khi anh làm việc hoặc làm cho cơ quan chính phủ hoặc làm cho công ty của tư nhân, phải tận tâm tận lực làm cho viên mãn.

Đây là hạnh Phổ Hiền, nếu không thật lòng, không có trách nhiệm, đầu cơ thủ xảo thì anh không thể vãng sanh, điều này quý vị phải biết.

Cho nên, người niệm Phật thì nhiều, người vãng sanh thì ít, tại vì sao?

Miệng thì niệm Phật còn tâm cùng đạo trái ngược. Pháp môn này là pháp môn Phổ Hiền, chẳng phải pháp môn thông thường. Hy vọng mọi người thật sự trong tâm nghĩ tưởng một đời này phải vãng sanh thì anh đặc biệt phải lưu ý. Chúng ta thân khẩu ý ba nghiệp phải nhất trí, không thể khẩu thị tâm phi vậy là sai rồi, đó là chẳng phải tu hạnh Phổ Hiền.

Đối vật cung kính, thí dụ nói, trong giảng đường chúng ta, những bàn ghế bảng phải cung kính đối với chúng, chúng ta đem nó sắp thật ngay, lau chùi thật sạch sẽ đây tức là đối vật lễ kính, cho nên đều không ngoài đối người, đối sự, đối vật, đây đều gọi là Chư Phật.

Vì sao gọi là Chư Phật?

Bởi vì tất cả chúng sanh, đều có Phật Tánh, đã có Phật Tánh thì tương lại nhất định sẽ làm Phật, cho nên trong mắt của Phổ Hiền Bồ Tát là pháp bình đẳng. Tất cả vạn vật chúng đều có pháp tánh. Pháp tánh và pháp tánh là một tánh không phải hai tánh, cái tánh này tức là chân tâm bản tánh là một, có thể sanh vạn pháp.

Lục Tổ Đại Sư lúc khai ngộ nói rằng: Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp, thập pháp giới y chánh trang nghiêm đều là tự tánh sở sanh, đều là tự tánh chỗ biến hiện ra, tự tánh là Phật, những sự biến đổi của vạn pháp, vạn vật đương nhiên đều là Phật, phải dùng tâm lượng như vậy, quan sát như vậy.

Đối với tất cả đều cung kính như thế mới gọi là lễ kính Chư Phật. Cho nên cùng với cách hành lễ thông thường của chúng ta không giống nhau, cảnh giới cũng không giống nhau. Do đây có thể biết hạnh Phổ Hiền thật sự quảng đại vô cùng.

Là trong hành môn của Bồ Tát thật sự đạt được cứu cánh viên mãn. Là học sinh của Di Đà, ước nguyện cầu sanh Tịnh Độ phải để mắt chú ý chỗ này, phải từ chỗ đây hạ thủ dụng công. Đệ nhị xưng tán Như Lai, xưng là xưng dương, tán là tán thán.

Có một điều kỳ lạ là ở đây không dùng chữ Chư Phật mà đã đổi thành Như Lai, Như Lai và Chư Phật có gì sai biệt không?

Nếu nói Chư Phật tức là Như Lai, Như Lai tức là Chư Phật thì ở đây không nên đổi, một khi đã đổi có lẽ là có cách nói khác.

Không sai. Cũng như trong Kinh Kim Cang chỗ nói. Quý vị đọc Kinh Kim Cang, nếu hơi để ý một chút, Kinh Kim Cang trong đó có khi nói Chư Phật, đôi khi nói Như Lai. Nói Chư Phật và Như Lai ý nghĩa không giống nhau. Nói Chư Phật là từ trên tướng mà nói, nói Như Lai là từ trên tánh mà nói đều này không giống nhau.

Như vậy, ý nghĩa này nói rõ: Lễ kính là từ trên tướng mà nói, nhất thiết cung kính không thể có phân biệt chấp trước. Chúng ta đối với Phật cung kính như thế nào thì chúng ta đối với cha mẹ, Sư Trưởng cũng cung kính như thế ấy, đối với tất cả chúng sanh cũng cung kính như thế, thậm chí đối với những kẻ không chừa một việc ác nào cũng phải cung kính như vậy, quyết định không có phân biệt, quyết định không có chấp trước, đây là lễ kính.

Tuy nhiên xưng tán thì lại khác bởi vì sao?

Xưng tán có thể ảnh hưởng đến xã hội, ảnh hưởng đến phong tục, nhất định phải xưng dương mặt phải, mặt sai chúng ta không xưng dương, cũng tức là chúng ta xưng dương cái thiện mà không xưng dương cái ác.

Thiện là tánh đức cho nên dùng Như Lai, bất thiện là trái ngược với tánh đức chúng ta không xưng tán. Lễ kính nhưng không xưng tán. Điều này cổ nhân thường nói chúng ta đối với số người ác, việc ác thì kính nhi viễn chi.

Anh xem, kính: Lễ kính, chẳng khác viễn là gì?

Là không theo họ học, không xưng tán họ, không bắt chước họ. Như vậy thì là đúng. Viễn không phải là lánh cho thật xa, không phải ý nghĩa này. Theo ý nghĩa này, thì tâm cung kính sẽ bị đánh mất, sẽ không còn kính ý, là không xưng tán, không theo họ mà học, là ý nghĩa như vậy.

Cho nên, những cương lĩnh này phải thực hiện trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Chúng ta học rồi thì biết dùng ngay. Từ này trở đi, xử sự, đối người tiếp vật chúng ta phải tuân thủ quy tắc này, tuân thủ cương lĩnh này để làm, thật sự nỗ lực để làm, đây tức là tu hành.

Đem những quan niệm sai lầm trước kia của chúng ta: Suy nghĩ sai lầm, cách nhìn sai lầm, cách làm sai lầm toàn bộ tu chỉnh trở lại, đây gọi là tu hành. Điều này trong Kinh Hoa Nghiêm chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng, Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham vấn, tức là đem hạnh Phổ Hiền thực hành trong sinh hoạt hàng ngày cho chúng ta xem, biểu diễn cho chúng ta xem.

Cho nên Kinh Hoa Nghiêm đích thực là bộ sách giáo khoa tốt nhất trong sách giáo khoa của thế gian, trong sách giáo khoa của thế gian không tìm thấy đựơc, chẳng có viên mãn như vậy.

Trong Hoa Nghiêm có lý luận. Lý luận viên mãn, có phương pháp. Phương pháp vô cùng tinh tế, lại còn có biểu diễn. Biểu diễn này tức là Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham vấn, mà Thiện Tài tức là đại biểu cho chúng ta, mô phạm của chúng ta.

Cho nên quý vị vừa nghe đến Thiện Tài Đồng Tử, anh liền nghĩ đến một đứa bé đứng bên cạnh Quán Âm Bồ Tát, đang chấp tay bái Ngài Quán Âm đó là Thiện Tài Đồng Tử, quan niệm này đã ăn sâu vào trong lòng của mọi người, bởi thế nên đối với Phật Pháp thật sự không biết một chút gì.

Đây là một đều vô cùng đáng tiếc. Thật tại mà nói, Thiện Tài tức là chính chúng ta, nghĩa là người tu hạnh Phổ Hiền thì gọi là Thiện Tài.

Thiện là gì?

Thiện là thiện căn, có thiện căn. Tài là đại biểu cho phước đức. Anh xem. Trong Kinh Di Đà nói bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức đắc sanh bỉ quốc. Do đây có thể biết, mỗi một người vãng sanh, đó đều là Thiện Tài. Cho nên quý vị phải biết gọi Thiện Tài tức là chính mình, chẳng phải người khác. Vậy tôi là người nữ, Thiện Tài là nam, có lẽ không phải tôi rồi.

Sai rồi. Thiện Tài không có nam nữ. Người nam là Thiện Tài, người nữ cũng là Thiện Tài, người hội đủ thiện căn, phước đức thì gọi là Thiện Tài. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ chân thật nghĩa trong Kinh.

Anh xem bài Khai Kinh Kệ chúng ta vừa đăng tòa giảng Kinh nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa đừng đem ý Phật nghĩ sai, điểm này vô cùng, vô cùng quan trọng.

Vậy thì kỳ Pháp Hội này rất là thù thắng, chúng tôi có quyển Nhận Thức Phật Giáo xin cúng dường đại chúng, hy vọng mọi người hãy xem nhiều lần, nếu chúng ta có sự nhận thức chính xác, đối với Phật Pháp có sự lý giải chính xác được vậy thì Phật Pháp đối với chúng ta mới khởi tác dụng chân chánh, có thể mang lại lợi ích chân chánh cho chúng ta.

Như vậy, năm mươi ba vị thiện tri thức tức là chúng ta. Từ sáng đến tối, sống trong xã hội tiếp xúc mọi người, từng nhân vật. Năm mươi ba vị này là đại biểu.

Trong đó, người xuất gia chỉ có năm vị, vẫn là tại gia nhiều hơn, năm mươi ba người chỉ có năm người xuất gia, tại gia thì nhiều hơn, mà trong những người tại gia. Quý vị hãy nhìn kỹ xem. Các ngành các nghề, nam, nữ, lão, thiếu đều có.

Đây là đại biểu cho mọi giai tầng nhân vật, từ sáng đến tối, mỗi ngày đều gặp, đây là hoàn cảnh tu hạnh Phổ Hiền của chúng ta, chúng ta phải biết tu. Thiện Tài Đồng Tử là tu theo thứ tự mười đều cương lĩnh của Phổ Hiền Bồ Tát.

Như thế những đại chúng trong xã hội thật sự có người tốt, mà cũng có người không tốt và năm mươi ba vị thiện tri thức, trong có đại biểu cho thiện, cũng có đại biểu cho ác, như thắng nhiệt Bà La Môn, Cam Lồ Hoả Vương họ đại biểu cho mặt ác thì không phải là thiện:

Thắng nhiệt Bà La Môn đại biểu cho ngu si, Cam Lồ Hoả Vương là sân khỏe tánh rất nóng gặp người liền nổi nóng, đánh người chửi người, thậm chí sát hại người. Phạt Tô Mật Đa là kỹ nữ, dâm nữ đại biểu tham ái. Ba người này đại biểu cho tham sân si. Tam độc phiền não, Thiện Tài Đồng Tử khi tiếp xúc với họ, lễ kính nhưng không tán thán.

Vì sao thế?

Tham sân si là trái ngược với tánh đức, điều này nói với chúng ta: Những người vào việc bất thiện, chúng ta đối với họ phải kính nhưng không tán thán, điều thiện chúng ta phải tán thán.

Đây thật sự phù hợp với sự răn dạy của Cổ Đức Trung Quốc chúng ta ẩn ác dương thiện, thấy người ta không tốt là không nói, một lời cũng không nhắc, thấy người tốt thì tán thán, tán dương thì xã hội này của chúng ta, mới có quang minh, xã hội mới có thể chuyển ác thành thiện, khiến cho mọi người đều đạt được hạnh phúc, đều đạt được mỹ mãn. Cho nên sự xưng tán này là Như Lai mà không phải là Chư Phật. Ý nghĩa là ở chỗ này.

Thứ ba: Quản tu cúng dường điều này vô cùng, vô cùng quan trọng. Đối với một vị Bồ Tát bình thường. Vì tâm của họ không bình đẳng, tâm vẫn chưa thanh tịnh, cho nên Bồ Tát tu đó là bố thí.

Anh xem, Bồ Tát tu bố thí Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục. Họ tu bố thí. Còn Bồ Tát Phổ Hiền thì tu cúng dường. Anh xem. Cái tâm đó cung kính biết bao. Chúng ta bố thí, đối với Phật gọi là cúng dường đối với người bình thường gọi là bố thí.

Anh xem. Cái tâm đó tất đã có phân biệt rồi. Phổ Hiền Bồ Tát không có phân biệt, đối với Phật cúng dường, đối với chúng sanh cũng cúng dường, đối với người tốt là cúng dường, đối với kẻ ác vẫn là cúng dường. Thật sự bình đẳng. Chân bình đẳng.

Cho nên, tâm lượng của Phổ Hiền Bồ Tát so với người khác không giống nhau. Cúng dường là nhân, quả báo là phước. Tài cúng dường được tài phú, pháp cúng dường được thông minh trí tuệ, vô uý cúng dường được khỏe mạnh, trường thọ.

Anh xem. Ba thứ này đều là nhu cầu của chúng ta, người không học Phật cũng mong muốn. Không những Phật Giáo, các ngoại giáo khác như Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo. Tôi gặp họ vừa nhắc đến.

Họ cũng đều cần, họ cũng rất thích trường thọ, đều thích khoẻ mạnh, đều thích có tiền, có tài phú nhưng họ không biết tu nhân thì anh làm sao có được. Nhờ cậy vào Phật, Bồ Tát phù hộ, nhờ vào Thượng Đế thần minh ban cho anh, đó gọi là nằm mơ, không thể có chuyện như vậy.

Họ nói có bằng chứng, người nào đó tin giáo rất là chí thành, Thượng Đế ban cho họ phước báo, chỉ có một người, mấy ngàn, mấy vạn người xin Thượng Đế chỉ có một người có được, ngoài ra đều không được, Thượng Đế sao lại thiên vị như vậy?

Đây chẳng phải thật. Nếu quả là thật, mỗi người đều cầu xin, mỗi người đều đạt được. Đó là thật. Nếu quả là thật, tôi cũng tin theo Thượng Đế rồi.

Phật nói lời thật cho chúng ta: Phước đức này là phải anh tự mình tu, anh tự mình không tu thì Phật, Bồ Tát không có khả năng ban cho anh, Phật nói ban phước cho anh, vậy là Phật, Bồ Tát trở nên gạt anh rồi.

Phật không có cách nói này. Phật chỉ chỉ dạy cho chúng ta, đây là sự thật mà chúng ta không hiểu. Phật dạy cho chúng ta. Đem phương pháp này dạy cho chúng ta. Cho nên anh xem. Người thế gian này phát tài, họ có tài phú. Phát đại tài.

Có người phát tài rất vui mừng, vì sao thế?

Họ không có bận tâm, tài nguyên này của họ cuồn cuộn mà tới. Có người phát tài, phát một cách rất cực khổ, rất khó khăn mới kiếm được. Tuy nhiên, quý vị nên biết dễ dàng có được với cực khổ có được đều là cái nhân của kiếp trước bố thí. Kiếp trước nếu không bố thí, cùng một ngành nghề tôi đi làm bảo đảm lỗ vốn.

Bởi vì sao?

Kiếp trước không có tu bố thí, thì tài phú từ đâu đến?

Cho nên tuyệt đối không thể nói kiếp này rất thông minh, rất tài cán, vận khí rất tốt đó là anh nhìn bề ngoài thôi.

Vì sao thế?

Vì người thông minh, tài cán, vận khí tốt hơn nhiều hơn họ, tại sao người ta không phát tài?

Vì sao chỉ là họ phát tài?

Cái nhân trồng ở tiền kiếp, kiếp này được hưởng quả báo. Phải biết đạo lý này. Vậy thì kiếp trước bố thí tài bố thí một cách rất vui vẻ, rất hoan hỷ thì kiếp này được tài phú sẽ được hoan hỷ, họ không một chút bận tâm. Kiếp trước bố thí, bố thí rất khổ sở như là cắt thịt vậy.

Chao ôi. Thấy họ bố thí không thể không bố thí một tí, là vì thể diện, kiếp này cũng được tài phú, nhưng được một cách không dễ dàng, được một cách cực khổ. Là ý nghĩa như vậy.

Thí dụ nói. Chúng tôi xin cử một tỉ dụ đơn giản, chúng ta cúng dường ẩm thực cho người khác, tỉ như quý vị những người học Phật biết cúng dường Pháp Sư, chúng ta làm cơm, thức ăn ngon, làm xong rồi mang đến đây cúng dường Pháp Sư, phước báo mà anh được đó thì là tự tại.

Nếu như chúng ta mời Pháp Sư đến một nơi nào đó dùng cơm, Pháp Sư phải cực nhọc đến nơi đó để ăn một bửa cơm thì phước báo mà tương lai anh được đó thì rất cực khổ mới có được, nếu anh không cực khổ thì anh sẽ không có, anh hãy từ tỉ dụ này mà suy nghĩ thì anh sẽ rõ ngay.

Cho nên bố thí cúng dường phải rất vui vẻ, rất hoan hỷ khiến người nhận không phải quá cực khổ, chúng ta tương lai được phước báo sẽ được dễ dàng. Điều này nhất định phải biết.

Pháp bố thí được thông minh trí tuệ, cũng cùng một đạo lý như vậy, chúng ta cúng dường thế, xuất thế gian pháp, cúng dường Phật Pháp. Trong thời đại ngày nay, như Kinh Sách, băng cassette, băng video những thứ này đều là Pháp Bảo, chúng ta sanh tâm hoan hỷ, tận tâm tận lực cúng dường, điều này sẽ được trí tuệ. Được thông minh trí tuệ.

Đương nhiên, có thể xây dựng một Đạo tràng, nếu tự mình không đủ khả năng xây dựng Đạo tràng, mướn hoặc mượn chỗ để thỉnh Pháp Sư giảng Kinh, nói pháp, đây cũng là pháp bố thí, pháp cúng dường. Thật tại mà nói, ngày nay chúng ta làm những việc này, ba thứ bố thí đều hội đủ cả.

Vì trong sự cúng dường này cứ lấy việc in Kinh mà nói, in Kinh phải cần tiền, tiền là tài bố thí, trong Kinh Sách là Phật Pháp, là pháp bố thí, mọi người được đọc Kinh Điển, tiếp nhận Kinh Điển này, y giáo phụng hành đây thuộc về vô úy bố thí.

Họ trong một đời này có thể thoát lý Tam Giới luân hồi, có thể liễu sanh tử, thành Phật đạo, sự cúng dường này thật sự là đạt đến sự cứu cánh viên mãn, cái phúc báo đó. Thực tế mà nói dù là Chư Phật Bồ Tát cũng không nói hết.

Đương nhiên, tôi càng không có được năng lực này, cho nên cúng dường là nhân của phước tuệ, cần phải rộng tu cúng dường.

Bồ Tát, có thể nói từ lúc mới phát bồ đề tâm. Bồ đề tâm chân chánh giác ngộ, không còn mê hoặc nữa, thật sự giác ngộ rồi. Từ nay về sau, niệm niệm vì tất cả chúng sanh, tâm tâm vì hoằng dương Phật Pháp. Trong thời đại này, Tịnh Độ đặc biệt khế cơ, nói một cách khác, trong tất cả Phật Pháp, hoằng dương chánh pháp có thể khiến chúng sanh được chân thật lợi ích, được lợi ích hiện tiền.

Như vậy không phải những pháp môn khác không có lợi ích, nhưng lợi ích không phải là hiện tiền. Nói một cách khác, trong kiếp này chưa hẳn đạt được lợi ích, mà là kiếp sau, đời sau, đời sau nếu không thể xuất Tam Giới. Nói một cách khác. Sự bố thí cúng dường của anh đều biến thành phước báo, tức là chúng ta ở thế gian này có địa vị, có tài phú.

Là biến thành những người này, biến thành những người này cũng không tệ, cũng có thể hưởng thụ một đời. Giả như trong kiếp này lại mê hoặc, điên đảo, khi phước đã hưởng hết rồi, kiếp sau lại phải đọa lạc.

Cho nên, cách bố thí cúng dường này là chẳng phải cứu cánh, chẳng phải viên mãn. Cho nên nói pháp môn Tịnh Độ Tông hiện tiền được lợi ích đây là điều chúng ta cần phải thật sự suy xét.

Lấy cái phước báo hữu hạn trước mắt của chúng ta, thời gian hữu hạn, phải nên làm sao để tu phước?

Làm sao để tu cúng dường?

Kỳ thực, phạm vi của việc cúng dường vô cùng rộng lớn, chỉ là tâm lượng của chúng ta quá nhỏ, không phải hạnh Phổ Hiền.

Tỉ như bà ở trong nhà, bà là một nội trợ trong gia đình, mỗi buổi sáng thức dậy, đem hoàn cảnh gia đình dọn dẹp sạch sẽ, ba bữa cơm nấu cho thật ngon cúng dường cha mẹ bà, đây là cúng dường đấy, khiến cả nhà ai nấy đều ăn ngon miệng, là quý vị cúng dường cả nhà, nhưng quý vị không mang cái tâm cúng dường.

Việc cúng dường thì quý vị đều có làm cả, quý vị không có cái tâm cúng dường, do đó phúc báo mà quý vị đạt được chẳng viên mãn. Nếu quý vị có cái tâm cúng dường.

Ồ. Thì phước báo của quý vị sẻ rất viên mãn, nếu có thể, lại đem cái tâm cúng dường này, việc làm cúng dường này mở lớn ra, lấy tâm bình đẳng đối đãi tất cả đại chúng.

Tôi ở Tân Gia Ba, đối với Cư Sĩ Lâm rất có thiện cảm, thiện cảm gì đây?

Là vì quý vị một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, đều ở nơi đây tu cúng dường.

Phòng ăn phía dưới của quý vị không có phân biệt, không có chấp trước, chẳng phải nói: Nếu không phải là đồng tu của Đạo tràng của tôi thì không thể đến ăn cơm. Người nào cũng có thể đến ăn cơm. Điều này thật phi thường, đây là quản tu cúng dường. Cho nên, pháp duyên của Cư Sỉ Lâm rất là thù thắng, Phật Pháp mỗi ngày một hưng vượng.

Là có đạo lý của nó. Quý vị có tâm lượng lớn như vậy, thiết tha ơ đây tu cúng dường, ở đây tu bố thí, cho nên Đạo tràng này được phước, tất cả đồng tu trong Đạo tràng đều có phước, thật là hiếm có, thật là hiếm có. Cho nên việc cúng dường bố thí này chúng ta phải vô cùng coi trọng, phải thiết tha cố gắng tu học.

Hiện nay, có rất nhiều người đều cảm thấy mình rất khổ, đều muốn cải thiện vận mạng của mình, cải thiện hoàn cảnh sinh hoạt của mình mà không biết từ đâu cải thiện?

Vậy thì trước kia tôi đã giới thiệu cho quý vị Liễu Phàm Tứ Huấn vả lại, tôi còn luôn khuyên quý vị đồng tu phải đem quyển Liễu Phàm Tứ Huấn niệm ba trăm biến, niệm xong ba trăm biến thì ấn tượng của quý vị sâu rồi, đạo lý hiểu rõ rồi, thì sẽ biết nên làm cách nào xử sự đối người tiếp vật.

Anh biết được cách tu phước rồi, đó chính là cái mà chúng ta phải cải tạo vận mạng, cải thiện hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình, đó là một phần tài liệu tu học rất tốt. Thế nhưng hạnh Phổ Hiền đích thật là cứu cánh viên mãn so với Liễu Phàm Tứ Huấn chẳng biết là cao hơn bao nhiêu lần.

Điều đó không thể so sánh được. Chúng ta phải coi trọng, đây là coi trọng hạnh phúc của chính mình. Thứ tư phải sám hối nghiệp chướng, đây cũng là có nhiều vị đồng tu đều cảm giác nghiệp chướng của mình nặng lắm. Từ vô thủy kiếp mãi đến kiếp này tạo tội nghiệp quá nhiều. Nghiệp chướng sâu nặng, đều muốn đến tu sám hối.

Sám hối bằng cách nào đây?

Không biết. Nghĩ rằng trong Phật đường, lạy vài bộ Lương Hoàng Sám, lạy vài bộ Đại Bi Sám thì nghiệp chướng sẽ được sám trừ hết.

Sau khi lạy xong, về nhà bình tĩnh suy nghĩ xem, nghiệp chướng của quý vị đã sám trừ hết chưa?

Nếu nghiệp chướng vẫn còn chưa có sám trừ, vậy cái sám lạy đó gọi là uổng phí, sám có hiệu quả hay không?

Thật sự là có hiệu quả.

Vì sao quý vị lạy mà chẳng có hiệu quả?

Là vì thân quý vị lạy, còn tâm thì không lạy, hữu khẩu mà cũng hữu tâm. Xem anh dập đầu lễ bái trong tâm lại khởi vọng tưởng. Tâm và hành chẳng tương ưng. Cho nên nghiệp chướng của anh chẳng có được sám trừ. Ở đây, chúng ta phải đem ý nghĩa này nói rõ ràng hơn, nói minh bạch hơn một tí.

Cái gì gọi là nghiệp chướng?

Nếu như ngay đến nghiệp chướng mà cũng chẳng hiểu thì làm sao để sám?

Vậy làm sao biết được là có hiệu quả?

Cho nên trước tiên phải biết cái gì gọi là nghiệp chướng?

Nghiệp là tạo tác, anh xem.

Thường thường chúng ta gặp một người mới quen biết, thế nào cũng hỏi: Anh làm nghề gì?

Làm, hành nghiệp nào, thì anh tạo hành nghiệp đó. Anh đang tạo nghiệp, tạo nghiệp đương nhiên là có chướng rồi. Người người đều tạo nghiệp.

Không những người thành niên trong xã hội tạo nghiệp, trẻ nhỏ vừa mới đi học, anh xem. Trong bài học, sổ bài tập chúng đang tạo nghiệp, bắt đầu thọ nghiệp rồi. Chữ nghiệp này thực tế mà nói tức là sự, trong lúc chúng ta đang tạo tác là sự, việc làm xong rồi cái kết quả đó gọi là nghiệp, gọi là sự nghiệp. Sự là trong lúc tạo tác, kết quả tạo tác gọi là nghiệp. Sự có thiện, có ác vì vậy nên nghiệp cũng có thiện, có ác.

Còn công cụ tạo tác là thân, khẩu, ý. Đây là công cụ. Trong lòng khởi tâm động niệm là tạo nghiệp. Ý nghiệp.

Trong tâm tạo nghiệp: Khởi một niệm thiện thì anh đã tạo thiện nghiệp, khởi một niệm ác thì anh đã tạo ác nghiệp. Khởi tâm động niệm đều là đang tạo nghiệp, ngôn ngữ trong miệng gọi là khẩu nghiệp, thân thể tạo tác gọi là thân nghiệp. Trong ba nghiệp, ý nghiệp là chủ, ý chẳng động, tâm chẳng động, thì thân khẩu anh làm sao tạo nghiệp được. Cho nên, ý là chủ.

Ác nghiệp là chướng ngại, thiện nghiệp cũng là chướng ngại, chướng ngại gì đây?

Chướng ngại tự tánh thanh tịnh của chúng ta, tức là chướng ngại. Điều mà trong Kinh chỗ nói.

Ba đại cương lĩnh của sự tu học đó là: Thanh tịnh bình đẳng giác, là chướng ngại cái này. Gọi là nghiệp chướng.

Chướng cái gì?

Chướng tâm thanh tịnh, chướng tâm bình đẳng, chướng tâm giác, tự tánh thanh tịnh bình đẳng của chúng ta chẳng thể hiện tiền, đây gọi là nghiệp chướng.

Nếu sám hối thì nghiệp chướng của chúng ta quả thật đả tiêu trừ, hình dáng của sự tiêu trừ này là gì?

Tâm đã thanh tịnh, thì vọng tưởng ít, tạp niệm ít, phiền não ít, phiền não tức là tham sân si mạn, phiền não ít rồi, tâm thanh tịnh rồi trong tâm hốt nhiên có trí tuệ, đây tức là hiện tượng nghiệp chướng sám trừ.

Ngày trước đối với điều gì cũng hàm hồ, đều không rõ ràng. Hiện nay nhìn sự vật, sự vật nghe đều nghe rất rõ ràng minh bạch, đây tức là hiện tượng nghiệp chướng sám trừ. Cho nên việc sám nghiệp này.

Sám hối nghiệp chướng, phải từ trên tâm địa hạ thủ công phu, phải làm cách nào đây?

Điều thứ nhất anh phải biết lỗi lầm của mình, mỗi ngày phải phản tỉnh, phải kiểm điểm.

Hôm nay, tôi có những lỗi lầm nào?

Phàm phu chúng ta, quả thật nghiệp chướng quá nặng, nặng đến trình độ nào?

Nghĩ cách nào cũng không nghĩ ra.

Hôm nay tôi có những lỗi lầm gì?

Đây chính là nghiệp chướng quá nặng, suốt ngày đều đang phạm lỗi lầm họ không hay biết, tìm không ra lỗi lầm, vấn đề này thì là vô cùng nghiêm trọng. Cho nên nhất định phải đem lỗi lầm của chính mình tìm ra. Biết được lỗi lầm của mình, xin thưa với quý vị. Đây gọi là khai ngộ, đây tức là khai ngộ.

Sau đó đem lỗi lầm của mình cải chính trở lại. Đó gọi là tu hành. Chỗ gọi là tu hành tức là sám trừ nghiệp chướng, sửa lỗi tự thân, một ngày có thể sửa một lỗi lầm, nếu sửa trên ba năm, xin thưa với quý vị.

Nếu anh không là Thánh Nhân thì cũng là Hiền Nhân, anh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng những nắm phần chắc chắn, phẩm vị của anh nhất định rất cao, vì sao thế?

Tâm đã thực sự thanh tịnh rồi, người này gọi là chân chánh tu hành, chân chánh tu hành không thể nói rằng mỗi ngày niệm bao nhiêu bộ Kinh, niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, lạy bao nhiêu lạy, đó là giả, đó là hình tướng, hình thức. Chân tu hành là ở nơi tâm địa, chẳng ở nơi hình thức, hình thức chẳng có quan hệ gì. Tâm địa mới là vô cùng trọng yếu.

Phải sửa tâm, đem cái tâm ác, ý niệm ác sửa thành thiện, nhiên hậu đem ý niệm thiện sửa thành thanh tịnh. Cho nên người niệm Phật gọi là tu tịnh nghiệp, chẳng phải gọi là tu thiện nghiệp. Là tu tịnh nghiệp. Tâm tịnh tức là độ tịnh, mới được vãng sanh, mới được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cảm ứng đạo giao.

Do đây có thể biết, sám hối nghiệp chướng là trọng điểm tu hành của chúng ta. Bất luận là tông phái nào, bất luận là pháp môn nào, điều này đều là trọng điểm, trọng điểm chung phải ở chỗ này thật sự hạ thủ công phu. Thật tại mà nói, bốn đại cương lĩnh này có thể nói là hành môn cùng sự tu hành của Bồ Tát đều nói rõ ra hết. Chủ yếu là bốn điều này.

Phần sau có thể nói là phần ý nghĩa phụ theo, bởi vì Bồ Tát không những tự mình thành tựu mà còn hy vọng giúp đỡ tất cả chúng sanh thành tựu tự lợi lợi tha, tự hành hóa tha.

Do đó, nên không thể quên đi quảng đại quần chúng, không thể bỏ rơi tất cả chúng sanh, bởi thế nên có vài điều cương lĩnh ở phần dưới.

Thứ năm tùy hỷ công đức, trong đây có tự hành hóa tha, không giống như bốn điều ở phần trên hoàn toàn là tự mình tu học, hoàn toàn là tự lợi, trong phần này có tự lợi lại có lợi tha, điều này là do Phổ Hiền Bồ Tát đặc biệt liệt ra, Ngài có dụng ý rất sâu, bởi vì tất cả chúng sanh có thể nói từ vô thỉ kiếp đến nay đã có một thứ phiền não từ lúc mới ra đời, không phải học, phiền não gì đây?

Là tâm đố kỵ, người nào mà chẳng có. Nhìn thấy người khác hay hơn mình là trong tâm cảm thấy khó chịu, thì đố kỵ, tâm đố kỵ khởi dậy thì tâm sân giận cũng theo đó khởi dậy, muốn tìm cách chướng ngại họ, đi phá hoại họ, không để họ thành tựu, như vậy thì anh đã tạo tội nghiệp rất nặng rồi.

Thánh Nhân của thế gian dạy cho chúng ta phải thành nhơn chi mỹ: Nhìn thấy người làm việc tốt phải tận tâm tận lực giúp đỡ họ, vậy là đúng, không thể đi phá hoại họ, phá hoại họ là sai, chướng ngại họ là sai, đây là phiền não rất phổ biến cũng là rất nghiêm trọng.

Vì vậy cho nên Phổ Hiền Bồ Tát xem trong phần sau sám trừ nghiệp chướng điều thứ nhất là dạy cho chúng ta phải tùy hỷ công đức, khi nhìn thấy người khác có thiện hành, có thiện nguyện.

Có thiện hành. Không những tôi không đố kỵ mà tôi có thể sanh tâm hoan hỷ tận tâm tận lực đi giúp đỡ họ thành tựu cho họ đây gọi là tùy hỷ công đức, họ có công đức lớn bao nhiêu thì công đức của tôi cùng với họ không hai không khác.

Tục ngữ của thế gian chúng ta gọi là mượn ánh sáng, họ có ánh sáng, chúng ta tiêm nhiễm một phần ánh sáng, phần ánh sáng mà chúng ta tiêm nhiễm cùng với ánh sáng của bản thân họ không hai không khác.

Nếu chúng ta không có khả năng, không thể giúp nhưng sanh tâm hoan hỷ thì công đức cũng vẫn viên mãn như nhau. Dạy chúng ta tu tùy hỷ công đức, phá cái phiền não của đố kỵ, bỏn xẻn, tham lam. Phá đố kỵ bỏn xẻn tham lam căn bản phiền não.

Thế gian pháp, Phật Pháp trong đó có rất nhiều thiện nhân, trong Kinh Phật thường nói: Thiện nam tử, thiện nữ nhân họ có thiện tâm thiện hạnh. Chúng ta là Phật Tử chân chánh thì phải nên giúp đỡ họ, thành toàn cho họ khiến cho thiện hành của họ có thể truyền bá trong xã hội này, khiến xã hội đại chúng đều được lợi ích của họ, đều được hưởng thụ phúc báo của họ, công đức này thì là lớn.

Thậm chí, những người tu tùy hỷ công đức như chúng ta so với công đức của họ còn lớn hơn, nguyên nhân tại đâu?

Họ làm việc thiện đó, bao nhiêu người tán thán, bao nhiêu người biểu dương thì báo mất hết. Chúng ta tùy hỷ công đức, không có ai tán thán, cũng không có ai biểu dương chúng ta thì công đức của chúng ta đều được tích lũy, tích lũy ở chỗ đó. Chúng ta tích lũy là âm đức họ làm đó là dương đức, mọi người đều báo đáp mất hết.

Cho nên, anh phải hiểu rõ đạo lý này anh mới biết tùy hỷ công đức thật sự là bất khả tư nghì. Anh làm điều thiện tâm, làm điều thiện hành quyết định có thiện báo.

Thứ sáu thỉnh chuyển pháp luân đây là đệ nhất thiện hành trong tất cả thiện hành, chúng ta đều biết trong thế xuất thế gian nhất thiết pháp duy chỉ có Phật Pháp là chân thật, Phật Pháp có thể giúp cho con người giác ngộ. Phá mê khai ngộ.

Có thể giúp một người hiện tiền ngay trong đời này có được hạnh phúc vui vẻ, giúp đỡ một người gia đình được mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội hài hòa, quốc gia phú cường, thế giới đại đồng, đây là sự lợi ích của Phật Pháp đối với sự hiện tiền.

Đích thực là quảng đại vô biên, nó còn có những ích lợi thù thắng, đó tức là liễu sinh tử xuất Tam Giới, vĩnh thoát luân hồi, viên thành Phật đạo đây là tất cả pháp khác đều không thể sánh bằng.

Tuy nhiên, nếu Phật Pháp không có người thuyết tuy trí mạt năng giải, thế gian này người thông minh trí tuệ đối với Phật Pháp không cách chi lý giải được, nhất định phải có người thuyết, người Thuyết Pháp họ không phải tự nhiên tới, nhất định phải có người phát tâm đi thỉnh họ.

Ai đi thỉnh đây?

Những người hiểu Phật Pháp như chúng ta mới biết thỉnh, người không hiểu Phật Pháp không hề biết thỉnh Pháp Sư đại đức đến giảng Kinh, nhất định phải là người biết Phật Pháp.

Chúng ta tự mình được lợi ích của Phật Pháp, chúng ta muốn báo ơn Phật, báo ơn Phật thì báo bằng cách nào?

Thờ Tượng Phật Bồ Tát, mỗi ngày cúng một ít chuối, trái cây, dập đầu lễ bái như vậy là báo ân sao?

Không phải vậy. Thật tế mà nói, Phật Bồ Tát tuyệt không ham thích sự cúng dường này của quý vị, tâm nguyện của Phật Bồ Tát là hy vọng đem những lời răn dạy của Ngài có thể truyền bá phổ biến rộng rãi đến tất cả đại chúng, khiến tất cả đại chúng đều có được Phật Pháp, đều hiểu được Phật Pháp, đều có thể y giáo tu hành, đây là tâm nguyện của Phật. Vì vậy cho nên thỉnh Pháp Sư Đại Đức đến địa phương này giảng Kinh thuyết pháp đây là đệ nhất đại phước báo.

Cho nên chúng ta nói tu phước, tu phước báo gì lớn nhất?

Phước báo này là lớn nhất. Giả như tự mình tôi, một mình không có khả năng này. Vì thỉnh Pháp Sư giảng Kinh phải tốn kém chẳng ít. Nếu như tự mình không có Đạo tràng anh phải thuê chỗ nơi thỉnh Pháp Sư đến để giảng một tháng.

Mướn một chỗ. Tiền thuê mướn một tháng không phải là ít, hơn nữa đối với sinh hoạt của Pháp Sư còn phải chiếu cố, thậm chí đến thính chúng nghe cũng phải chiếu cố, nếu một người có khả năng thì một người làm rất tốt, một người không có khả năng tập hợp đại chúng đồng tu, mời vài người chí đồng đạo hiệp đến để cùng phát tâm, công đức này cũng đồng nhau.

Như phần trước đã giảng tùy hỷ công đức, có một hoặc hai người dẫn đầu lễ kính Pháp Sư đến giảng Kinh nói pháp đây gọi là thỉnh chuyển pháp luân. Chữ pháp luân này là tỉ dụ. Thật tại mà nói, đó là dấu hiệu trong nhà Phật chúng ta cái mác nhãn hiệu, dấu hiệu trong nhà Phật của chúng ta là Pháp luân.

Dùng pháp luân, dùng hoa sen thông thường dùng hai thứ này. Còn có dùng chữ vạn, chữ vạn là đại biểu cho cát tường, ý nghĩa của pháp luân là viên mãn. Luân, vật này rất có ý nghĩa, luân bánh xe là tròn, tròn là động, bởi vì nó động cho nên mới kéo theo khoa học kỹ thuật hiện đại.

Ngày nay khoa học kỹ thuật phát đạt như thế do lực lượng nào khởi động?

Do bánh xe khởi động. Cho nên, chẳng những là tại thế giới này của chúng ta, tha phương thế giới cũng không ngoại lệ. Anh xem.

Trong Kinh nói Chuyển Luân Thánh Vương đây là thống trị bao nhiêu tinh cầu?

Phước báo đó mới thật là lớn, cái bánh xe đó là công cụ giao thông của Ngài, cũng là đại biểu cho vũ lực của Ngài. Những năm gần đây, chúng ta phát hiện có đĩa bay Ufo. Vật phi hành. Có lẽ là Luân Bảo của Luân Vương đến chúng ta nơi đây để thị sát.

Cho nên, nó cũng là hình tròn, bởi thế cái bánh xe này tác dụng của nó vô cùng lớn, rất viên mãn. Phật Pháp dùng cái ý nghĩa này. Còn có cái sâu hơn, tròn là động, tâm của vòng tròn là tịnh, tâm vòng tròn không động, Phật Pháp thường nói động tịnh không hai, thể tướng nhất như.

Cho nên không tâm là không, tướng là có, nó còn đại biểu cho chân không diệu hữu: Tượng trưng cho ý nghĩa này. Bởi thế giảng Kinh nói pháp là tỉ dụ chuyển động pháp luân. Dùng pháp luân này làm đại biểu. Còn hoa sen đại biểu ý nghĩa thanh tịnh, mọc từ bùn nhơ mà không nhiễm. Đại biểu tâm thanh tịnh. Cho nên, cách biểu trưng này là thù thắng nhất.

Viên mãn nhất. Vẫn là cái bánh xe này, vẫn là pháp luân, thỉnh chuyển pháp luân tức là thỉnh Pháp Sư giảng Kinh thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh. Hiện nay, chúng ta lợi dụng công cụ khoa học, khiến cho hiệu quả của chúng ta mở rộng ra, rất nhiều.

Rất nhiều. Lần đầu tiên này trước kia chẳng có. Xưa kia Pháp Sư giảng Kinh, nhiều lắm chỉ là học trò của họ, lúc nghe Kinh chép lại thành bút ký, sau đó mới in thành sách để lưu thông, số lượng so ra rất có hạn.

Còn hiện nay, chúng ta có thể đem nó làm thành băng cassette, băng video, lưu hành khắp nơi khiến những người không có tham dự Pháp Hội của Đạo tràng chúng ta cũng có cảm thọ như đích thân đến Đạo tràng vậy. Đây là công cụ khoa học đem đến cho người hiện đại một phần hậu lễ.

Cho nên việc hoằng dương, truyền bá Phật Pháp nhất định phải hiện đại hóa, nhất định phải khoa học hóa. Chúng ta hôm nay lực lượng chưa đạt tới, đương nhiên đây vẫn chịu sự quan hệ của hoàn cảnh, nếu trong tương lai khoa học kỹ thuật tiến bộ hơn, hoàn cảnh cho phép, trên lầu của Phật đường chúng ta đây tốt nhất là có một đài phát vô tuyến, chúng ta giảng Kinh ở đây, truyền hình của mỗi nhà vừa mở ra tất cả đều xem thấy.

Anh xem. Chúng ta ở giảng đường này giảng Kinh xem như là hoằng dương trên toàn thế giới rồi, như vậy mới là hiện đại hóa Đạo tràng, nhất định phải hướng về phương hướng này, mục tiêu này mà nỗ lực.

Cho nên, sau này khoa học kỹ thuật phát đạt, Đạo tràng này thật tình mà nói không cần phải lớn lắm, nhất định phải dùng vô tuyến điện, dùng vệ tinh truyền bá, Đạo tràng giảng Kinh này không cần phải thật lớn mà vẫn có thể mang hiệu quả truyền khắp thế giới. Đó là nói việc thỉnh giảng Kinh.

Thứ bảy: Thỉnh Phật trụ thế, đây là một bước lại tiến thêm một bước, thỉnh Pháp Sư giảng Kinh, bộ Kinh này giảng xong thì họ đi mất.

Quý vị thử nghĩ xem, có mấy người nghe xong một bộ Kinh liền khai ngộ?

Nghe xong một bộ Kinh liền chứng quả?

Lúc Phật Đà còn tại thế thì có.

Sau khi Phật diệt độ thì chưa từng nghe qua, như vậy thì phải làm sao?

Tỉ như lúc nãy tôi vừa nói, nghiệp chướng của chúng ta quá nặng, phương pháp duy nhất là phải huân tu, huân tu cũng là tỉ dụ thôi. Cổ nhân thời xưa dùng nước hoa không tiện lợi như bây giờ, y phục trên người xịt một cái tức thời thơm ngay nhanh biết bao. Vừa sạch sẽ lại dễ coi.

Người thời xưa muốn y phục thơm tho phải làm cách nào?

Ướp hương.

Dùng khói thơm để ướp trên y phục này, đại khái ít nhất phải xong một ngày y phục đó mới có mùi thơm, tức là phải có thời gian dài để huân tập, như thế là sao?

Nhất định phải thỉnh Pháp Sư thường trụ ở một nơi, đừng có đi, mỗi ngày vì chúng ta giảng Kinh, hằng năm không gián đoạn, trường kỳ huân tập như thế thì trung đẳng căn tánh, người nghiệp chướng nặng cũng đều khai ngộ.

Đương nhiên, việc này phải dự bị một đủ một số điều kiện so với việc lâm thời thỉnh Pháp Sư đến giảng Kinh cần có nhiều điều kiện hơn, điểm này rất quan trọng.

Trong lịch sử Trung Quốc chúng ta quý vị hãy quan sát kỹ xem, những vị Tổ sư đại đức Trung Quốc thường thường tại một Đạo tràng ở mấy mươi năm thậm chí cả đời không rời khỏi Đạo tràng này, do đó, số người thành tựu rất nhiều, điều này chúng ta cần phải hiểu rõ.

Đương nhiên, bên trong duyên là nhân tố trọng yếu hàng đầu. Tôi đối với vấn đề này lý giải rất sâu, tôi đều muốn có thể trụ ở một nơi bất động, nhưng không có được phước báo này, không có duyên phần này.

Người thế gian gọi là mệnh số bôn ba lao nhọc. Hôm nay, địa phương này đến tìm tôi, qua hai ngày sau địa phương khác lại đến tìm tôi, đối với tôi mà nói cũng có chỗ tốt. Người thế gian rất khó đã phá quan niệm về cái nhà, tôi đã thật sự không còn nữa, quan niệm này hoàn toàn không còn nữa.

Tôi chỉ biết mình là khách, đều ở quán trọ, ở vài ngày rồi lại đi, cho dù quý vị biết tôi ở Đài Bắc có Đạo tràng, tôi ở Đạo tràng đó cũng chỉ là khách, một năm cũng chỉ ở không hơn hai, ba tháng.

Mỗi lần về Đài Loan đại khái chỉ ở một tháng ngoài, không đến hai tháng thì lại phải đi, cho nên tất cả chỉ là khách thôi. Điều đó giúp tôi đem thân tâm thế giới tất cả buông xuống, không buông xuống không được, phải buông xuống thôi, không còn quan niệm về cái nhà nữa.

Tuy nhiên việc tôi làm chỉ là tuyên truyền Phật Pháp, đem Phật Pháp giới thiệu cho mọi người, giới thiệu cho mọi người, muốn giúp đỡ cho quý vị thành tựu tôi vẫn chưa làm được, không có duyên phần này. Tôi muốn thật sự giúp đỡ thành tựu, nhất định phải ở lâu dài, ở một nơi đây quanh năm, suốt tháng cùng đại chúng ở một nơi huân tu.

Như trước kia chúng tôi ở Đài Trung, thầy Lý Bỉnh Nam thầy trụ ở Đài Trung hết ba mươi tám năm. Ba mươi tám năm không rời khỏi Đài Trung. Ngày ngày giảng Kinh thuyết pháp, cho nên ở Đài Trung số người vãng sanh rất nhiều.

Đó là sức mạnh của sự huân tu. Tôi ở Đài Trung hết mười năm, theo thầy Lý học giảng Kinh. Ở tại đó hết mười năm. Không có thời gian dài như thế quyết định không thể học được chi cả.

Cho nên, muốn thật sự học biết một thứ gì, cần phải có một thời gian khá dài, còn việc thỉnh Phật Trụ Thế, Phật hiện nay không còn nữa, ngày nay chúng ta có thể thỉnh được thiện tri thức. Xuất gia hoặc tại gia.

Thiện tri thức có tu, có học, có chứng thì là khó, thật sự có tu có học thì là vô cùng hiếm hoi. Cương lĩnh tu học đến đây có thể nói là đã giảng viên mãn rồi. Cương lĩnh tu học của Phổ Hiền Bồ Tát đã giảng viên mãn.
 

THẬP NGUYỆN
 

Thực tế, bảy điều này là nguyện, ba điều sau là thuộc về hồi hướng.

Ba điều sau là hồi hướng: Hồi hướng thực tế, hồi hướng bồ đề, hồi hướng chúng sanh.

Hồi hướng ba nơi này: Thường tuỳ Phật Học, đây là hồi hướng bồ đề.

Hằng thuận chúng sanh là hồi hướng cho chúng sanh.

Phổ giai hồi hướng là hồi hướng thực tế.

Thực tế tức là chân như bổn tánh, nhất thiết đều quay về nơi tự tánh. Cho nên tất cả vạn pháp đều lưu xuất từ nơi tự tánh, tất cả vạn pháp trở về tự tánh, cho nên phổ giai hồi hướng này ý nghĩa thì là rất sâu.

Trong hồi hướng bồ đề, thường tuỳ Phật Học cái cương lĩnh này rất trọng yếu, chúng ta muốn học Phật. Phật mới là tiêu chuẩn tu học của chúng ta, mới là tấm gương tu học của chúng ta, chúng ta phải theo Phật để học, đây là tối thượng thừa.

Tôi cũng có nghe trong số quý vị đồng tu đối với tôi rất tôn kính, rất ngưỡng mộ, muốn bái tôi làm thầy, đây là tác dụng của tình cảm.

Quý vị tại sao không bái Đức A Di Đà Phật làm thầy?

Làm đệ tử của Đức A Di Đà đó mới là đúng. Thường tuỳ Phật Học. Tôi là lấy A Di Đà Phật làm thầy, anh cũng lấy A Di Đà Phật làm thầy, chúng ta là bạn học. Như vậy mới đúng.

A Di Đà Phật ở đâu?

Kinh Vô Lượng Thọ tức là A Di Đà Phật, chúng ta mỗi ngày giở quyển Kinh ra đọc tụng Kinh Vô Lượng Thọ, tức là tiếp nhân lời răn dạy của A Di Đà Phật, tiếp nhận sự khai thị của A Di Đà Phật. Mỗi ngày đều đọc tụng. Lấy tâm thanh tịnh để đọc tụng, lấy tâm chân thành để đọc tụng, lấy tâm cung kính để đọc tụng.

Anh ngày ngày đều có chỗ ngộ, đọc một biến hiểu rõ thêm một tí, đây tức là thọ dụng. Hiểu được ý của Phật rồi. Sau khi hiểu rồi, tôi y theo mà làm, ngày ngày có chỗ ngộ. Nói một cách khác, Phật ngày ngày khai thị cho chúng ta, đó chẳng phải ngày ngày tôi niệm Kinh này cũng chẳng thấy được Phật.

Anh sai rồi. Lúc nãy tôi đã nói với anh, anh dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính, Phật ở tại đây gia trì, Phật Quang đang chiếu anh, không những A Di Đà Phật gia trì cho anh, tất cả Chư Phật Như Lai đều gia trì cho anh.

Làm gì có đạo lý chẳng khai ngộ chứ. Ngày ngày có chỗ ngộ, cho nên anh có pháp hỷ sung mãn, mỗi ngày đều có một chút giác ngộ, đều hiểu rõ thêm một chút, điều này vui biết mấy.

Đây mới thật sự quí báu, không có gì quý báu hơn cái này, không có gì hoan hỷ hơn cái này. Tuy nhiên, anh nhất định phải làm theo, phải y theo tu hành, anh thật sự tu hành ngày mai lại có chỗ ngộ, ngày ngày có chỗ ngộ, ngày ngày thiết tha tu hành. Như vậy mới thật sự là đệ tử của Phật.

Cho nên, chúng ta, y Kinh Vô Lượng Thọ, tức là A Di Đà Phật, huống chi trong Kinh Phật đã nói rõ với chúng ta A Di Đà Phật còn có một danh hiệu khác là Thanh Tịnh bình đẳng giác.

Thanh Tịnh bình đẳng giác tức là A Di Đà Phật, nếu chúng ta có thể tu như vậy, đó mới thật là điều răn dạy của Phổ Hiền Bồ Tát, thường tuỳ Phật Học, chúng ta đã thật sự thực hiện, quả thật không luống qua.

Thứ chín: Hằng thuận chúng sanh. Phải học Phổ Hiền Bồ Tát, phải học Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham vấn.

Chúng sanh, tập khí không tương đồng, căn tánh không giống nhau: Có thiện, có ác. Không những ở thế gian này của chúng ta, phạm vi nếu mở rộng ra, có lục đạo chúng sanh, thập pháp giới chúng sanh cho đến tha phương thế giới, chúng sanh vô lượng, vô biên. Chúng ta ở trong những cảnh giới này chỗ gọi là hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất.

Hoàn cảnh nhân sự là chánh báo. Hoàn cảnh vật chất là khí thế gian của y báo. Trong đó, tu Hạnh Phổ Hiền, tu Phổ Hiền Bồ Tát thập đại cương lĩnh, lấy thập đại cương lĩnh hoàn thành tổng cương lĩnh của Kinh Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, do đây có thể biết, bộ Kinh Vô Lượng Thọ này thật sự là Vô Giá Chi Bảo.

Phần trước chúng tôi đã nói qua với quý vị là chân truyền duy nhất của Như Lai, Bảo Tràng chân truyền của Chư Phật, có được chẳng phải dễ dàng. Chúng ta thật sự là có phước báo rất lớn, rất lớn.

Chúng ta ở trong kiếp này mới gặp được, vả lại còn được nghe, quả nhiên khi nghe hiểu rồi có thể y giáo phụng hành. Vậy thì xin chúc mừng anh. Anh trong một đời này thành Phật rồi, không còn luân hồi nữa, không còn làm phàm phu nữa.

Vì vậy cho nên đối với chúng sanh phải hằng thuận, cũng tức là bảo tất cả hoàn cảnh nhân sự, trong cảnh giới của hữu tình chúng sanh tu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của chính mình, điều gì thấy chướng mắt từ từ luyện tập thấy thuận mắt, đây gọi là tu hành.

Là điều thứ mười: Phổ giai hồi hướng, là đem tất cả công đức do chính mình tu, hồi hướng cho pháp giới lũy thể, đây tức là trong bài kệ hồi hướng thường nói nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, phổ giai hồi hướng, tức là trang nghiêm Phật Tịnh Độ là ý nghĩa này.

Phổ Hiền Bồ Tát trong danh hiệu này, cùng hồi hướng có mối quan hệ, phổ giai hồi hướng hiển thị chữ phổ, Phổ Hiền Bồ Tát là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới, còn hằng thuận đây là hiền, thường tuỳ Phật Học, hằng thuận chúng sanh, đây là hiền, cho nên trong ba câu hồi hướng này đã đem danh hiệu của Phổ Hiền Bồ Tát bao hàm trong đó.

Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát tự mình đã nói, Ngài nói: Ngã ký vãng sanh bỉ quốc dĩ Phổ Hiền và Văn Thù đều phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, sau khi đến Cực Lạc Thế Giới, Ngài nói: Tôi đã vãng sanh đến Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà. Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện, câu nói này rất quan trọng.

Đây là Bồ Tát Phổ Hiền vì sao phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ?

Đem nguyên nhân này đã nói ra. Tức là nói rõ đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thấy được A Di Đà Phật thì mười đại nguyện của Ngài viên mãn, nói một cách khác nếu không đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Ở Thế Giới Hoa Tạng tu hành, Ngài vẫn cảm giác rằng nguyện của Ngài chưa được viên mãn, vẫn còn khiếm khuyết, đến được Tây Phương Thế Giới mới là cứu cánh viên mãn. Đây cũng hiển thị rằng đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì viên thành Phật Đạo.

Cho thấy Tây Phương Tịnh Độ là thù thắng không chi sánh bằng. Ngay đến Phổ Hiền, Văn Thù đều phải cầu sanh.

Chúng ta vì sao lại không đi chứ?

Chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới rồi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, đứng ngồi ngang nhau, vì sao thế?

Họ là học sinh của A Di Đà Phật, chúng ta cũng là học sinh của A Di Đà Phật. Quan hệ của chúng ta với họ là bạn đồng học, họ là học trưởng của chúng ta, chúng ta là học đệ của họ, cho nên đương nhiên địa vị là bình đẳng, vả lại họ phải có nhiệm vụ phải thường chiếu cố chúng ta.

Học trưởng phải chiếu cố học đệ. Cho nên những điều này nhất định phải nắm rõ thì tâm nguyện của chúng ta mới chắc thật, tín tâm mới kiên cố.

Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát lại nói: Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sanh, tốc quãng Vô Lượng Quang Phật sát nguyện vọng của Phổ Hiền Bồ Tát hy vọng tất cả chúng sanh đang trầm luân trong lục đạo luân hồi mau mau niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, và đây cũng là cái nguyện ba mươi sáu trong bốn mươi tám nguyện A Di Đà Phật Giáo hoá tuỳ ý nguyện hiển thị một cách chân thật trước mặt chúng ta, nguyện vọng của Phổ Hiền Bồ Tát.

Do đây có thể biết, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta, cùng với một số Đại A La Hán, đại Bồ Tát theo gót Đức Thích Ca Mâu Ni Phật rất có thể đều là Bồ Tát của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tái lai, thị hiện đến để tiếp dẫn chúng ta. Về mặt lý luận mà nói, điều này nói được thông, câu Kinh Văn này chúng tôi xin giới thiệu tới đây.

Chúng ta tiếp tục xuống phần Kinh Văn phía dưới, trang thứ ba, dòng thứ hai câu chót, cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung. Trước tiên, nói về hai chữ này, nói về hai câu này, cụ túc là bổn lai vốn cụ túc, người người đều cụ túc, nhất thiết chúng sanh tất cả đều cụ túc.

Vô lượng hạnh nguyện cho thấy rằng hạnh nguyện là tánh đức chẳng phải từ ngoài đến, hạnh, Bồ Tát hạnh, Lục độ. Nguyện, như lúc nãy vừa nói, Phổ Hiền Bồ Tát thập nguyện là tổng cương lĩnh hạnh cứu cánh viên mãn của Bồ Tát.

Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát nhã. Sáu điều này tôi thiết nghĩ quý vị đều rất quen thuộc. Tuy nhiên tinh nghĩa của nó, người biết được thì không nhiều, cho nên mỗi người ai cũng biết niệm mà chẳng biết tu, điều này thật đáng tiếc.

Nhất định phải biết được tinh nghĩa của nó, biết cách nào để tu. Chỗ gọi là cách tu là đem nó biến thành sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Bố thí trong đó có tài thí, có pháp bố thí, vô uý bố thí.

Trong tài bố thí, có nội tài, có ngoại tài: Vật ngoại thân là ngoại tài, thân thể, thể lực của chúng ta là nội tài. Tỉ dụ nói, trong Đạo tràng này có rất nhiều vị đồng tu đến làm công quả, ra sức làm, ra sức là bố thí nội tài, cúng dường nội tài. Ra tiền là ngoại tài, vật ngoại thân là ngoại tài, tôi dùng lao lực của tôi để làm việc là nội tài đều là bố thí cúng dường.

Chúng ta từ sáng đến tối, anh ở nhà phục vụ vì cả nhà công tác là anh bố thí cho cả nhà, cúng dường cả nhà của anh, nếu như anh hiểu rõ thì anh biết anh đang ở trong gia đình tu Bồ Tát đạo, anh tu đó là Bồ Tát Hạnh, anh sẽ làm việc rất vui vẻ, tâm địa thanh tịnh tràn đầy trí tuệ, tràn đầy hỷ duyệt.

Giả như anh mê hoặc điên đảo: Tôi ở nhà vì những người nhà làm những việc cực khổ, làm lao công, ngày ngày hầu hạ họ, ngay cảm ơn tôi cũng chẳng có. Suốt ngày hờn giận. Thì tuy nói là bố thí, trong đó mang theo phiền não cho nên tương lai quả bảo của anh không được tự tại.

Điều này Phật Bồ Tát đã nói, vì sao khi học Phật rồi sẽ mang đến cho anh niềm hạnh phúc khoái lạc chân chánh, công việc đều làm được một cách vui vẻ, không hề khởi phiền não, đó là vì sao?

Vì tôi đang bố thí cúng dường, tôi đang tu phước. Tu phước đương nhiên là việc vui vẻ. Chúng ta ở trong đoàn thể, tận tâm tận lực làm việc cũng là đang tu bố thí. Trong công ty hãng xưởng, chúng ta vì chủ nhân phục vụ, vì công ty phục vụ cũng là bố thí, cũng là cúng dường.

Bất luận là lúc nào, bất luận ở nơi chốn nào nếu không dùng ngoại tài, thì là dùng nội tài. Ngày ngày, thời thời, khắc khắc bất cứ nơi nào đều đang tu bố thí, đều đang tu cúng dường, nhưng rất tiếc anh chẳng có cái quan niệm này, vậy thì anh đang ở đó tạo nghiệp.

Anh xem. Có phải đáng tiếc lắm không. Ý niệm vừa chuyển thì cái nghiệp đó tức thời biến thành bố thí cúng dường, biến thành tát nghiệp, anh hãy xem lục đạo phàm phu vừa chuyển biến là Bồ Tát nghiệp. Tịnh nghiệp, học Phật phải biết chuyển.

Chuyển cảnh giới. Chẳng có chuyển việc làm, chẳng có chuyển sự tướng, đem ý niệm chuyển rồi, thì anh sẽ vô cùng vui vẻ. Hơn nữa, Phổ Hiền Bồ Tát không hề nhàm chán, không hề mệt mỏi.

Không hề nhàm chán là vì sao?

Vì pháp hỷ sung mãn.

Đây là nói về bố thí, chư vị hãy lắng tâm suy nghĩ để thể hội nghĩa này, sau đó ngày ngày đều làm, chúng ta phải chuyển phàm thành Thánh: Trước kia chúng ta là phàm phu, cảm thấy sự cực khổ của mình là vì kẻ khác, kẻ khác vẫn cảm khích biết ơn, khi làm thì oán than rên siết, trong tâm bất bình. Ý niệm vừa chuyển thì tâm bình ngay, thì vui vẻ ngay, trong tâm vừa vui vẻ thì khoẻ mạnh trường thọ, phải đem quan niệm này chuyển trở lại.

Trì giới tức là thủ pháp, đây thuộc về nghĩa rộng chẳng phải nghĩa hẹp. Bất luận làm việc gì đều phải có trình tự nhất định, có phương pháp nhất định, phải tuân thủ chuyện công, chuyện tư, chuyện lớn, chuyện nhỏ. Đều phải có quy tắc. Chúng ta nên hiểu, phải tuân thủ, mới khiến cho những gì chúng ta làm, mọi thứ đều như pháp, mọi thứ đều ngăn nắp có tuần thứ, không loạn, thứ tự đâu vào đó.

Thứ ba nhẫn nhục nhẫn nhục tức là nhẫn nại, bất luận làm việc gì thành công đều phải nhờ tâm nhẫn nại, chuyện lớn phải nhẫn nại nhiều, chuyện nhỏ nhẫn nại ít, người không có tâm nhẫn nại thì làm việc thì không thể thành tựu, nhất định phải có tâm nhẫn nại, phải đem việc làm này quan sát cho rõ ràng, minh bạch, biết được cơ duyên khi nào chín muồi. Không quá bận tâm, nôn nóng. Có được cái tâm như vậy từ từ nó sẽ định lại.

Cho nên sau đó có tinh tiến, thiền định, tiến là tiến bộ, tinh là tinh thuần không tạp loạn. Chúng ta học hành, học khoa hệ nào, thì ngay trong khoa hệ đó cầu tiến bộ, sau khi tốt nghiệp rồi bước vào xã hội làm việc cho một ngành nghề nào thì trong ngành nghề đó cầu tiến bộ.

Thế mới là đúng. Tâm của anh chuyên, chuyên nhất. Trong tiến bộ thì có được định, định tức là tam muội mà chúng ta thường nói, tam muội tức là sự hưởng thụ bình đẳng, sự hưởng thụ bình hường tức là người thường chỗ nói hạnh phúc vui vẻ, sự nghiệp thuận lợi thành công mỹ mãn. Sáu điều cương lĩnh này của Bồ Tát và mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát thật sự giúp chúng ta đạt đến.

Quý vị hãy suy xét kỹ xem. Làm cách nào ứng dụng nó vào sinh hoạt, ứng dụng nó vào gia đình, ứng dụng nó vào sự nghiệp. Vì nó là sống thật không phải chết.

Kinh Phật nếu học mà không có chỗ dùng ai học làm gì?

Chỗ lợi ích của nó là vừa học xong lập tức có chỗ dùng, dùng rồi lập tức có hiệu quả, thật sự là nhanh chóng. Tức thời thấy có hiệu quả. Tâm thanh tịnh tất sanh trí tuệ.

Cho nên điều sau cùng, bát nhã tức là trí tuệ, tâm thanh tịnh, tâm có chủ tể, trong tâm không loạn động, không có tạp niệm, không có vọng tưởng thì nó sẽ sanh trí tuệ, hạnh nguyện vô lượng vô biên.

Phật vì chúng ta nói pháp đem nó quy nạp thành mấy điều đại cương, cho nên Bồ Tát hạnh có sáu đại cương. Lục độ Phổ Hiền Bồ Tát có mười đại cương lĩnh tức là Thập đại nguyện vương đầy đủ vô lượng hạnh nguyện tánh đức. Thuận tánh đức chúng ta xưng tán, tánh đức này.

An trụ nhất thiết công đức pháp trung. Tất cả pháp công đức này. Xưa nay, một số đại đức đều cho là vô lượng công đức của quả địa của Như Lai. Thực tế nếu phối hợp với phần trên mà nói. Phần trên là tánh đức. Tuy nhiên cần phải tu đức thì tánh đức mới có thể hiển hiện ra. Cho nên, phải thật sự để tu.

Như vậy câu này chúng ta nên dựa vào giáo nghĩa của Bổn Tông để nói nhất thiết công đức pháp này tức là chỉ cho bộ Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ tức là nhất thiết công đức pháp môn. Chúng ta, đem tâm an trụ nơi Kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày chúng ta đọc nó, mỗi ngày tư duy, mỗi ngày thực hành.

Có nghĩa là: Tôi phải đem nó làm cho bằng được, phải đem nó biến thành hành vi thực tế trong sinh hoạt của chính mình đây mới thật sự mới là an trụ nơi nhất thiết công đức pháp trung. Tất cả là viên mãn một chút công đức cũng không xót, công đức viên mãn.

Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện, nhập Phật Pháp Tạng, cứu cánh bỉ ngạn. Phía trước hai câu này, ý nghĩa rất rõ ràng, chúng ta tự mình đã an trụ trong Kinh Vô Lượng Thọ, tự mình đạt được tất cả pháp công đức, có được lợi ích chân thật.

Tuy nhiên, tiến thêm một bước là phải đem công đức của Đại Kinh này mở rộng ra, phải giới thiệu cho tất cả chúng sanh tức là du bộ Thập Phương. Đi tuyên truyền cùng khắp, đi giới thiệu, đi tiến cử, đi làm những việc này, hành quyền phương tiện đây tức là thường nói thiện xảo phương tiện.

Có một số người không chấp nhận, chúng ta dùng phương pháp xảo diệu để khiến họ có thể hoan hỷ tiếp nhận đó là hành quyền phương tiện.

Khi họ không thể tiếp nhận và bài xích không nên miễn cưỡng, vì sao?

Vì nhân duyên chưa thành thục, họ ưa thích những pháp môn khác thì cứ dùng những pháp môn khác dẫn dụ họ, đến sau cùng quay đầu trở lại thì là nhập vào pháp môn này rồi.

Cho nên anh phải biết phương pháp. Phương pháp xảo diệu. Có thể dẫn dụ tất cả chúng sanh nhận thức Phật Pháp, nhận thức Kinh Vô Lượng Thọ, nhận thức pháp môn Tịnh Độ, điều này vô cùng, vô cùng quan trọng.

Nhập Phật Pháp Tạng câu này gọi là nhất thừa đại pháp, như Phật trong Kinh Pháp Hoa chỗ nói duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị diệt vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết bổn Kinh là nhất thừa trong nhất thừa, tinh thuần nhất không gì hơn. Cho nên Chư Cổ Đức có nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa vẫn là dẫn đạo của Kinh Vô Lượng Thọ.

Câu này rất có đạo lý. Đây là nhất thừa hỏa hải tức là Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, tức là một câu danh hiệu này Nam Mô A Di Đà Phật. Cứu cánh bỉ ngạn, bỉ ngạn tức là viên mãn thành Phật, thành vị Phật cứu cánh, không phải phần chứng Phật, Tông Thiên Thai có tạng thông biệt viên.

Viên Giáo Phật mới là cứu cánh bỉ ngạn, dùng phương pháp gì?

Niệm Phật, thành Phật thật là bất khả tư nghì. Cho nên, pháp môn này phương pháp đơn giản dễ dàng. Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật là được.

Tuy nhiên, quý vị nên ghi nhớ, anh phải dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đằng, tâm từ bi để tu thanh tịnh bình đẳng giác, thì câu A Di Đà Phật sẽ tương ưng. Bởi thế nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật.

Bình thường, chúng ta niệm câu A Di Đà Phật này, niệm rất nhiều vì sao chẳng tương ưng?

Vì sao công phu chẳng được đắc lực?

Vì tâm chúng ta không chân thành, không thanh tịnh, không bình đẳng, không từ bi. Chúng ta đem Lục độ, Thập nguyện tất cả đều quên sạch hết.

Cho nên, tuy có niệm, nhưng niệm không tương ưng, niệm không đắc lực. Hôm nay, chúng ta đã hiểu rõ rồi, minh bạch rồi, đem hết những căn bệnh không tương ưng trước kia sửa đổi, trở lại hết, từ này về sau, thì sự niệm Phật của chúng ta sẽ nhứt niệm tương ưng nhứt niệm Phật, niêm niệm tương ưng niệm niệm Phật nhất định sẽ được vui vẻ hạnh phúc, được mỹ mãn.

Thôi hôm nay chúng tôi xin giảng đến đây.

A Di Đà Phật!

***