Thuaàn tònh thuaàn thieän
Phöôùc hueä song tu

hoathuongtinhkhong.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP MƯỜI CHÍN

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MƯỜI CHÍN
 

Xin lật Kinh bản, chúng tôi trước tiên đem Kinh Văn đọc một đoạn để đối chiếu. Diệc vô bỉ ngã, vi oán chi tưởng.

Hà dĩ cố?

Bỉ Chư Bồ Tát, ư nhất thiết chúng sanh, hữu đại từ bi, lợi ích tâm cố. Những đoạn Kinh Văn này đều là nguyên tắc tu hành của Chư Bồ Tát ở Tây Phương Thế Giới.

Chúng ta phải nên học tập, cho dù chúng ta làm không nổi cũng phải biết chân tướng của sự thật này, phải có tâm mơ ước hâm mộ, có thể làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, tận tâm tận lực đi làm, như vậy thì là tương ưng. Đoạn này nói đó là lợi ích chúng sanh.

Phía trước là thuộc về tự lợi, chỗ này là thuộc về lợi tha. Trong lợi tha quan trọng nhất tức là bình đẳng tâm, thanh tịnh tâm, cùng đại bi tâm. Cho nên Phật nói với chúng ta diệc vô bỉ ngã đây là bình đẳng trên nhân sự, chẳng phân tự tha, sanh Phật nhất thể, tự tha bất nhị. Điều này là nguyên tắc vô cùng quan trọng để lợi ích chúng sanh.

Vi oán tức là chúng ta thường nói háo ác, háo chẳng có đề cập chỉ nói một chữ ác, vi là trái ngược với thường tình thường lý, oán là chẳng những có nghĩa trái ngược mà còn có nghĩa oán hại, thậm chí oán hận.

Đây là khi gặp cảnh giới bất như ý, rất dễ sanh khởi những niệm này, những niệm này đều là phiền não tập khí, từ vô thỉ đến nay, cảnh giới bên ngoài vừa hiện tiền thì tập khí này liền bị nó dẫn dụ ra.

Nói diệc vô do đây có thể biết, định công của Bồ Tát rất sâu chẳng bị ngoại cảnh làm lay động, định công của Bồ Tát sâu, công phu sâu, trí tuệ của Bồ Tát sâu rộng, đem tất cả chúng sanh nhìn được vô cùng thấu triệt.

Từ trên tự tánh mà xem tất cả chúng sanh đều là bình đẳng, đều là thiện lương chỉ là từ kiếp số vô thỉ đến nay, bị mê tà nhiễm, nên họ biến thành nông nỗi này.

Chính giống như một người tỉnh táo, một người rất có lý trí, một người rất có ái tâm, cùng một bọn người say rượu ở chung một nơi như nhau, kẻ say rượu kia buông lời bậy bạ, thậm chí động tay động chân, một tý lễ độ đều chẳng có, còn người tỉnh táo kia họ vốn rất tốt, rất dễ thương: 

Uống say rượu rồi thì có thể tha thứ cho họ. Bồ Tát nhìn chúng sanh của chúng ta đây là mê hoặc điên đảo giống như dáng điệu của kẻ say rượu kia say bí túy nghiêng qua ngã lại là tình hình như vậy, Bồ Tát tỉnh táo, cho nên họ có trí tuệ rất sâu, tuyệt đối chẳng trách tội nhóm chúng sanh này.

Chúng sanh sao có thể nói chẳng làm việc ác chứ?

Nếu họ chẳng làm việc ác thì họ sớm làm Bồ Tát thành Phật rồi, chỉ là vì tập khí xấu, rất nặng thời thời khắc khắc có ác niệm thời thời khắc khắc có hành vi ác, Phật Bồ Tát quyết định không trách tội, tâm họ tịnh họ bình đẳng dưới đây đã nói hà di cố?

Tại sao Bồ Tát chẳng trách tội nhóm chúng sanh vi oán này, Bỉ Chư Bồ Tát, ư nhất thiết chúng sanh, hữu đại từ bi, lợi ích tâm cố đây là đem nguyên nhân nói ra rồi, nhóm Bồ Tát này đại từ bi, từ bi ở trên thêm chữ đại, tức là cái từ bi bình đẳng, cái từ bi chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước thì gọi là đại từ bi. Người thế gian chúng ta cũng có từ bi, trong Phật Pháp gọi là ái duyên từ bi.

Tôi yêu thích hắn, thích hắn đối với hắn rất từ bi, không thích hắn không thương hắn thì không từ bi rồi, đây người thế gian gọi là ái duyên từ bi, chẳng bằng Phật và nhóm Đại Bồ Tát, họ là vô duyên từ bi, vô duyên là không có điều kiện, cái từ bi không có điều kiện là đại từ bi.

Chẳng những là đại từ bi mà lại còn hữu lợi ích tâm cố, khiến cho tất cả chúng sanh được lợi ích chân thật, nhóm Bồ Tát này thường giữ cái tâm như vậy, điều là hy vọng chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh được lợi ích chân thật. Xả ly nhất thiết chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, đây chúng ta thường gọi là phá chấp trước.

Chấp trước có hai loại nhân ngã chấp, pháp ngã chấp. Chấp trước tức là căn nguyên của phiền não.

Phật trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Tất cả chúng sanh chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc, chữ chứng đắc này là không thể thành Phật, vọng tưởng chấp trước đấy.

Vậy còn nhân ngã chấp, nếu lìa xa rồi xả bỏ rồi, thì kiến tư phiền não đoạn, nói một cách khác Tam Giới luân hồi đều vượt qua, do đây có thể biết chỉ cần anh có nhân ngã chấp trước thì anh chẳng ra khỏi lục đạo luân hồi, ta thường thường nói có tôi, có nó, có anh.

Anh chỉ cần có cái quan niệm này thôi tồn tại cái niệm này không đoạn thì anh ra không khỏi luân hồi. Đến một ngày nào đó tôi, anh, nó không còn nữa thì chứng A La Hán rồi, thì ra khỏi Tam Giới rồi, đến ngày ấy anh có thể nói là tôi anh nó chẳng có nữa.

Cái ngã chấp này phá hết rồi, câu này là phá ngã chấp, xả lìa tất cả chấp trước thành tựu vô lượng công đức, con người cần phải đến chỗ vô ngã thì cái tâm đó là đại công vô tư, chẳng có lòng riêng tư, con người có ngã anh chẳng bảo đó chẳng có lòng riêng tư là việc chẳng thể được.

Có ngã thì có lòng riêng tư, vô ngã mới chẳng có lòng riêng tư. Cho nên từ A La Hán trở lên chẳng có lòng riêng tư, trước khi chưa chứng A La Hán đều có lòng riêng tư, chỉ là thành phần của lòng riêng tư này khác nhau mà thôi. Chấp trước cạn sâu khác nhau, quyết định là có lòng riêng tư, Cực Lạc Bồ Tát chẳng có.

Vậy như chúng ta những người đới nghiệp Vãng Sanh, chúng ta hỏi có hay không?

Thật tại mà nói chúng ta một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, đến bên đó rồi thì cũng chẳng có.

Tại sao chẳng có?

Nhờ bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, nếu như chẳng được Phật bổn nguyện gia trì thì chúng ta vẫn có điều này thật sự bất khả tư nghì. Dĩ vô ngại huệ, giải pháp như như.

Thiện tri tập diệt, âm thanh phương tiện, bất hân thế ngữ, lạc tại chánh luận. Đây là y theo trí tuệ vô chướng ngại. Giải pháp như như đây thì pháp chấp cũng phá rồi, phía trước là phá ngã chấp câu này là phá pháp chấp.

Pháp chấp phá xong thì là thành Phật, nếu như chúng ta đem tiêu chuẩn này lại hạ thấp xuống nữa, hạ thấp đến thấp nhất, vậy cũng là Đẳng Giác Bồ Tát rồi là Hạng Pháp Vân Địa Bồ Tát, pháp chấp đã phá, giải pháp như như, pháp là chỉ cho tất cả vạn pháp tất cả vạn pháp, pháp tướng như kỳ pháp tánh, pháp tánh như kỳ pháp tướng, tánh tướng nhứt như.

Hai chữ như, một chữ là từ trên tánh mà nói, một chữ là từ trên tướng mà nói, tánh tướng như như. Nếu như đối với cách nói này vẫn rất khó thể hội thì Cổ Đức có một cái tỉ dụ, đem vàng và đồ dùng để làm tỉ dụ.

Vàng ví làm tánh, đồ dùng ví làm tướng. Đồ dùng như là chén bát, giống như dùng kim khí làm ra, dùng vàng để làm hoặc giả làm vòng đeo tay, hoặc làm dây chuyền hoặc làm cái ly, cái chén… đều là bằng vàng cái tướng đó không giống nhau, tướng thì là thiên sai vạn biệt. Còn thể của nó là một thứ, đều là bằng vàng rồng làm ra.

Vậy thì chúng ta có thể nói, vàng tức là đồ dùng, đồ dùng tức là vàng, vàng và đồ dùng là một chẳng phải hai, cách này dễ hiểu, lấy vàng làm đồ dùng, cái nào cũng đều là vàng, cách tỉ dụ này thì anh có thể hiểu được anh lại dần dần thể hội lời Phật nói: Chúng ta Vũ Trụ nhân sinh sum la vạn tượng từ đâu mà có?

Đều là từ tự tánh biến hiện ra. Cái tánh này thì ví như là vàng, còn Sum La Vạn Tượng thì ví như là đồ dùng.

Tánh tức là tướng, tướng tức là tánh, tánh tướng nhứt như, tánh tướng bất nhị, họ đã hiểu rõ rồi quả nhiên hiểu rõ rồi thì tâm của họ được đại tự tại, tự tại gì vậy?

Ở trong tất cả vạn pháp sẽ cũng chẳng phân biệt chấp trước nữa. Họ hiểu được vạn pháp bình đẳng, vạn pháp nhứt như, đây là pháp chấp đã phá rồi, đây tức là cảnh giới của Đại Bồ Tát rồi thiện tri tập diệt, âm thanh phương tiện, đây hoàn toàn là từ trên ngữ ngôn mà nói.

Trong ngữ ngôn chúng ta bao quát nghị luận. Nghị luận này cũng nói rõ tư tưởng, kiến giải của tất cả chúng sanh. Thiện tri chữ thiện này thì rất tuyệt dịu.

Chữ thiện này là ý nghĩa gì?

Là không hữu bất nhị đấy. Có tức là không. Không tức là có. Từ trên thể mà nói tức là không, từ trên tướng mà nói tức là có. Tánh tướng đã là nhứt như thì sự lý đương nhiên chẳng có chướng ngại. Không những sự lý chẳng có chướng ngại mà sự sự đều vô ngại. Đây là thật.

Đích thật là sự sự vô ngại, chỗ có tất cả chướng ngại từ đâu sinh ra?

Đều là từ vọng tưởng chấp trước sanh ra, lìa khỏi tất cả vọng tưởng chấp trước thì là vô ngại rồi nhập vô chướng ngại pháp giới rồi. Cho nên cần phải thiện tri, đối với những sự lý nhân quả này, triệt để hiểu rõ. Đây gọi là thiện tri, bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận, chữ thiện đó hiển thị tại chỗ này, nó là tất cả bình đẳng.

Còn có gì mà ưa thích hay không ưa thích?

Đương nhiên là chẳng có.

Tuy nhiên họ có, họ tại sao lại có?

Có đại từ bi lợi ích tâm cố, nơi họ là chẳng có thanh tịnh bình đẳng, nhưng mà vô số đông đão chúng sanh mê hoặc điên đão, khổ sở.

Cho nên phải chỉ dạy chúng sanh làm thế nào lìa khổ được vui, tại trong thế gian pháp mà nói, tức là từ trong hiện tượng mà nói, những thứ nghị luận của thế gian này bất không tức là chẳng ưa thích, ưa thích cái gì?

Ưa thích chánh luận, chánh luận tức là chánh pháp đấy. Lời dạy bảo của Chư Phật Bồ Tát đối với chúng ta đây là chánh luận.

Tiêu chuẩn của tà chánh chơn thật ở chỗ nào?

Chánh pháp là cùng tánh tương ưng, tà pháp cùng tự tánh trái ngược nhau, đây là tiêu chuẩn tuyệt đối. Chúng ta có thể thể hội được điểm này, mới biết được Thế Tôn chỗ bốn mươi chín năm cái pháp chỗ nói đó là có tiêu chuẩn, chẳng phải tùy tiện nói, đích thực giúp cho chúng ta phá mê khai ngộ vậy.

Mê là cùng tự tánh trái ngược, ngộ là cùng tự tánh tương ưng. Tri nhứt thiết pháp, tất giai không tịch, sanh thân phiền não, nhị dư câu tận, dư, là tập khí, dư tập.

Cả thảy đều đoạn được sạch sẽ rốt ráo. Sanh thân phiền não tức là sanh tử phiền não. Biết được tất cả pháp giai tất không tịch, chẳng những thể không tịch, thật tại mà nói tướng cũng không tịch.

Chỉ là chúng ta vì vọng tưởng chấp trước, chướng ngại nghiêm trọng. Chúng ta chẳng thấy được chân tướng Chư Phật Bồ Tát tâm địa thanh tịnh, tướng chân thật này bày ở trước mặt đúng là không tịch, tướng cũng là không tịch, cho nên mới là lý sự vô ngại sự sự vô ngại, tướng nếu chẳng không thì đương nhiên có chướng ngại, tướng là không.

Cái này rất khó hiểu, không hiểu cũng không sao, chẳng có quan hệ. Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới lại đem nó học cho biết thì được rồi.

Bây giờ chúng ta lão thật niệm Phật thì được rồi, bây giờ biết được đương nhiên càng tốt, không biết cũng không trở ngại Vãng Sanh, điều này chư vị phải biết chúng ta biết được đạo lý này. Ư Tam Giới trung, bình đẳng cần tu, cứu cánh nhất thừa, đây là nét đặc biệt của sư tu hành của Tịnh Tông.

Tam Giới: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới cái Tam Giới này là cực kỳ chẳng bình đẳng, sai biệt vô cùng lớn. Bồ Tát thì ở trong đây có thể thị hiện sự tu học bình đẳng, có thể chỉ dạy tất cả chúng sanh tu hành bình đẳng.

Cứu cánh nhất thừa tức là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ cái này là cứu cánh nhất thừa pháp. Chí ư bỉ ngạn, bỉ ngạn là thành Phật, tu hành pháp môn này trong một đời quyết định viên mãn thành Phật.

Quyết đoạn nghi võng, chứng vô sở đắc, hai câu này là thành tựu bát nhã trí tuệ cứu cánh viên mãn.

Thế Tôn xuất hiện tại thế gian vì chúng ta giảng Kinh thuyết pháp, giảng Bát Nhã giảng được 22 năm, trong Đại Tạng Kinh mà chúng ta hiện nay giữ lại, trong Đại Tạng Kinh bộ Kinh lớn nhất là Đại Bát Nhã Kinh, có đến 600 quyển, 600 quyển Đại Bát Nhã là nói những gì?

Trong tâm Kinh chỗ nói vô trí diệt vô đắc, năm chữ này Thế Tôn đã giảng hết 22 năm 600 quyển đại Bát Nhã là nói cái này vô trí, vô đắc, quyết đoạn nghi võng chứng vô sở đắc, chứng đắc trí tuệ bát nhã viên mãn, đối với cái này chẳng còn hoài nghi nữa.

Dĩ phương tiện trí, tăng trưởng liễu tri, chữ dĩ phương tiện trí là dụng. Phía trước chữ vô sở đắc là căn bản trí, là trí tuệ chân thật.

Phương tiện trí là dùng để giáo hóa chúng sanh là dùng cho người khác. Còn căn bản trí, thật trí là tự thọ dụng. Tự mình thọ dụng. Giáo hóa chúng sanh. Tăng trưởng liễu tri, chữ liễu tri này là hậu đắc trí, tức là vô sở bất tri. Phía trước là vô sở đắc là bát nhã vô tri khi nó khởi tác dụng thì là vô sở bất tri.

Tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông, đắc nhất thừa đạo, bất do tha ngộ. Bổn, là nguyên bổn, căn bổn, tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông, Cực Lạc Bồ Tát, loại năng lực này đều là A Di Đà Phật bổn nguyện oai thần gia trì bổn nguyện tức là bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện bất cứ một nguyện nào đều hàm nhiếp bốn mươi bảy nguyện kia, nguyện nguyện viên thông.

Cho nên lực lượng này thì bất khả tư nghì đắc nhất thừa đạo, bất do tha ngộ, pháp môn này của chúng ta, Pháp Tạng Tỳ Kheo, vừa mới mở đầu liền biểu hiện liền hiển thị toàn nhờ vào Phật lực, toàn nhờ vào Di Đà nguyện lực gia trì cho chúng ta, khiến cho chính chúng ta trên đường Bồ Đề, trong thời gian cực ngắn, viên mãn thành tựu.

Lại xem phẩm phía dưới, phẩm này cũng rất quan trọng. Chương này phẩm này là tiếp tục một phẩm trước thuyết minh diệu hạnh tự lợi, lợi tha.
 

CHÂN THẬT CÔNG ĐỨC

ĐỆ TAM THẬP NHẤT
 

Đây điều là nói về trạng huấn của Cực Lạc Thế Giới, vậy nói một cách khác cùng chúng ta quan hệ mật thiết, nguyện vọng của chúng ta tức là hy vọng rất nhanh có thể sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Kỳ trí hoằng thâm, thí như cự hải. Bồ Đề cao quảng, dụ nhược Tu Di. Phía dưới cộng có mười năm câu tỉ dụ. Trước tiên từ trên tỉ dụ để nói ra trí tuệ đức năng của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Bồ Tát. Câu thứ nhất nói trí tuệ của họ sâu rộng giống như biển cả chẳng khác, trí tuệ của họ sâu rộng như vậy.

Kỳ thật biển cả nếu cùng trí tuệ của Bồ Tát thật sự so sánh thì kém rất xa, rất xa. Phàm là tỉ dụ, chỉ có thể tỉ dụ cái phưởng phất, chẳng có cách chi vừa đúng, so sánh được hay như vậy, không thể được.

Chỉ so sánh hơi giống thôi, khiến cho chúng ta từ chỗ này đi thể hội. Bồ Đề cao quảng, Bồ Đề là giác, là giác ngộ. Thứ thứ giác ngộ.

Chẳng có thứ nào chẳng giác, chẳng giác thì mê rồi, họ tại sao giác ngộ cao độ như vậy?

Phía trước, cái thứ nhất đừng quên cái trí tuệ quả thật là căn bản, chẳng có trí tuệ thì anh làm sao chẳng mê. Đương nhiên mê rồi.

Sao có thể mê?

Tức là vì chẳng có trí tuệ, trí tuệ đặt ở câu thứ nhất, rất có đạo lý. Những phần sau đều phải nhờ vào trí tuệ, không có trí tuệ hoàn toàn không làm được. Cho nên cái giác ngộ của họ cao rộng. Dụ nhược Tu Di là giống như núi Tu Di.

Núi Tu Di, Phật nói là ngọn núi cao nhất của Thế Giới này của chúng ta, thì chúng ta gọi nó là núi Tu Di, Tu Di là tiếng Phạn, ý nghĩa là diệu cao, ngọn núi này là diệu cao, diệu là chúng bảo làm thành, đây là diệu núi cao vô cùng.

Tự thân oai quang, siêu ư nhật nguyệt. Bồ Tát trên thân đều có ánh sáng, chúng ta nơi phía trước thấy qua, đều đọc qua, ánh sáng của họ siêu hóa nhật nguyệt, nhật nguyệt chẳng sánh nỗi, đây hiển thị ra đức cao.

Kỳ tâm khiết bạch, do như tuyết sơn. Tuyết sơn Thế Tôn thường dùng tỉ dụ này tức là núi Hy Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ, tuyết này không chảy. Chúng ta nhìn thấy một màn trắng xóa, trông rất là sạch sẽ dùng cái này để tỉ dụ cho cái tâm của Bồ Tát thanh tịnh, một hạt bụi cũng không nhiễm giống như Lục Tổ chỗ nói bổn lai vô nhất Phật thì tâm này sạch sẽ thanh tịnh. 

Nhẫn nhục như địa, nhứt thiết bình đẳng, những chỗ này chúng ta thảy đều phải học. Chư Phật Bồ Tát đều có thể nhẫn, chúng ta tại sao chẳng thể nhẫn. Nhẫn nhục phải học Đại Địa.

Anh xem Đại Địa, anh xem nước hoa đổ lên nó, nó cũng chẳng cảm thấy anh đối với nó tốt. Ngày ngày tưới nước hoa cho tôi, anh mỗi ngày đem phân đổ lên nó, nó cũng chẳng chê bỏ nó cũng chẳng nói anh rất đáng ghét, anh ngày ngày coi rẻ tôi.

Cả thảy đều nhẫn được, sự nhẫn nhục của chúng ta phải như Đại Địa chẳng khác, chẳng có một thứ nào chẳng thể dung, chẳng có một thứ nào chẳng thể nhẫn, nhất thiết bình đẳng.

Thanh tịnh như thủy, tẩy chư trần cấu, đây là nói sự thanh tịnh của tâm địa, phải tu thanh tịnh hạnh, đem ô nhiễm của chúng ta từ kiếp vô thỉ đến nay, đem nó tẩy rửa cho sạch. Phật trong Kinh này dạy cho chúng ta sái tâm dị hành.

Xí thạnh như hỏa, thiêu phiền não tân. Đây là xí thạnh, hỏa là tỉ dụ cho trí tuệ. Trí tuệ phải thường thường hiện tiền, trí tuệ hiện tiền thì có thể diệt phiền não. Phiền não giống như củi, lửa vừa thiêu thì đem nó thiêu sạch hết, đem phiền não ví như là củi, trí tuệ giống như là lửa, dùng trí tuệ mới là chơn chánh diệt phiền não.

Định chẳng thể diệt được phiền não, định là phục phiền não. Nhẫn, định là phục phiền não, không thể diệt. Tuệ khai mở rồi thì phiền não chẳng còn, chơn tướng sự thật hiểu rõ rồi thì phiền não sẽ chẳng sanh nữa.

Bất trước như phong, vô chư chướng ngại. Bất trước tức là chẳng trước tướng. Trong chẳng trước tướng của thân tâm, ngoài chẳng trước tướng của chư pháp. Vậy thì là tự tại thì chẳng có chướng ngại. Chỗ có tất cả chướng ngại đều từ chấp trước sinh ra.

Anh trước thì có chướng ngại, chẳng trước thì chẳng có chướng ngại. Cho nên chẳng trước thì giống như gió không khác. Gió, gió vừa trước thì không còn nữa thì nó đã ngưng trước rồi, là dùng cái này để tỉ dụ.

Pháp âm lôi chấn, giác vị giác cố, đây là nói Bồ Tát hóa tha, giáo hóa chúng sanh âm thanh thuyết pháp giống như sấm sét tiếng sét nghe rất xa, cảnh giác những kẻ chưa giác ngộ kia.

Vũ cam lồ pháp, nhuận chúng sanh cố. Nước mưa này từ trên trời rơi xuống, cây cối cỏ hoa đều được thấm nhuần đây là tỉ dụ cho Phật Pháp, Phật Pháp có thể làm tươi nhuần thiện căn của tất cả chúng sanh.

Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng cố. Chữ khoáng này là hình dung tâm lượng, tâm lượng lớn. Như hư không chẳng khác. Cho nên đối với tất cả chúng sanh là từ bi bình đẳng, đại từ bi.

Như tịnh Liên Hoa, ly nhiễm ô cố, thì giống như hoa sen thanh tịnh kia, Phật Môn dùng hoa sen để biểu trưng sen là từ bùn nhơ mà không nhiễm, bùn nhơ tỉ dụ cho hoàn cảnh của lục đạo, cảnh giới này chúng ta có thể ở trong lục đạo mà chẳng nhiễm các thứ tập khí trong lục đạo, đó thì là giống như hoa sen chẳng khác, lìa ô nhiễm.

Như ni câu thụ, phú ấm đại cố. Chữ Như ni câu thụ chữ ni câu là tiếng Phạn, là một loại cây đại thọ ở Ấn Độ, bóng cây này rất rộng lớn.

Ngồi dưới cây này rất mát. Đó là thời xưa phiên dịch dịch thành cây vô kết, có lẽ cây này mọc rất cao rất lớn, rất ít nhánh kết, dịch thành vô kết. Vậy cái ví dụ này là nói lấy Phật Pháp Đại Thừa để che mát lợi ích quãng đại chúng sanh, đặc biệt là chỉ cho pháp môn Tịnh Tông Niệm Phật.

Cửu giới Hữu Tình chúng sanh, cơ duyên có duyên tiếp xúc đến đều được lợi ích thù thắng. Nếu tin được, nguyện được, hành được đều là một đời bất thối thành Phật, quả thật như một bóng cây khổng lồ chẳng khác.

Như Kim Cang xử, phá tà chấp cố. Đây cũng là tỉ dụ Như Kim Cang lực sĩ, trên tay cầm binh khí, cầm vũ khí đó là chày Kim Cang.

Vào thời xưa loại vũ khí này là bén nhọn nhất, tất cả khí giới đụng đến nó đều phải hư hoại. Chẳng có vật chi làm hư nổi chày Kim Cang, chày Kim Cang tỉ dụ cho trong vũ khí loại bén nhọn nhất có thể phá tà chấp.

Như Thiết Vi Sơn, chúng ma ngoại đạo, bất năng động cố, đây là tỉ dụ sự kiên định của tín tâm, nguyện tâm. Tất cả tà ma ngoại đạo, tất cả tri kiến đều không thể lay động, người này quyết định Vãng Sanh Tịnh Độ. Phần trên mười năm câu này đều là tỉ dụ, chúng ta từ trong tỉ dụ này để thể hội, Bồ Tát đức năng bất khả tư nghì.

Trí tuệ đức năng vô cùng quảng đại. Chúng ta sanh đến Tây Phương Thế Giới đều là như vậy đây đều là được Phật lực gia trì. Kỳ tâm chánh trực, thiện xảo quyết định, luận pháp vô yểm, phía dưới đây thuyết minh cái Đại Đức của Bồ Tát Hoằng Pháp lợi sanh.

Tâm chánh trực chơn thành đến chỗ cùng cực. Đây là Bồ Tát tâm, Bồ Tát Mã Minh trong khởi tín luận nói với chúng ta trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm. Trực tâm, là thể của Bồ Đề tâm. Thế Tôn trong Quán Kinh nói với chúng ta chí thành tâm.

Cho nên chánh trực, chánh là chí thành, chơn thành đến chỗ cùng cực. Thiện xảo quyết định đây là trí tuệ, Quáng Cơ, Ứng Cơ thuyết pháp, đây tức là thiện xảo quyết định. Người này căn cơ thế nào thì nói cái pháp thế đó, từ từ đem họ dẫn dụ vào Tịnh Độ. Cho nên ngàn Kinh muôn luận chỗ chỗ chỉ quy đến sau cùng nhất định chỉ về đến Tịnh Độ.

Luận pháp vô yểm đây là giác tha, đây là giảng Kinh thuyết pháp cho tất cả chúng sanh, cùng người ta thảo luận, chẳng mỏi chẳng mệt chẳng chán. Cầu pháp bất quyện đây là tự tánh Bồ Tát không ngừng đi cầu pháp. Thật tại mà nói giáo hóa chúng sanh cũng là đang cầu pháp.

Cổ Nhân thường nói giáo học tương trưởng đặc biệt là trong lúc vấn đáp, có rất nhiều người nêu ra vấn đề, rất nhiều vấn đề chúng ta tự mình chẳng nghĩ đến, họ vừa hỏi thì chúng ta hiểu rõ ngay thì trí tuệ này liền hiện tiền. Cho nên giáo học tương trưởng, bởi thế nên Bồ Tát không độ chúng sanh thì không thể viên thành Phật Đạo.

Tại sao vậy?

Vì trí tuệ chẳng thể viên mãn, nhất định phải tiếp xúc với quảng đại quần chúng mới có thể được trí tuệ viên mãn. Giới nhược lưu ly, nội ngoại minh khiết, hai câu này là nói trì giới, nghiêm trì giới luật.

Nói một cách khác Bồ Tát bất luận ở trong hoàn cảnh nào họ nhất định phải thủ pháp, quyết định sẽ chẳng phạm pháp. Chữ trì giới này tức là thủ pháp, điều này chúng ta nên rõ ràng.

Nếu ta đem giới và pháp tách rời ra thì là quá đổi sai lầm. Chữ giới này tức là pháp luật, chúng ta hiện tại nói đến pháp luật. Trong này bao gồm đạo đức phong tục tập quán, thứ thứ đều phải tuân thủ, quyết định chẳng vi phạm, đây là Bồ Tát hạnh, họ giữ được rất nghiêm, rất như pháp. Nội ngoại minh khiết, ngoại là thân hình, nội là tâm địa, tâm thanh tịnh.

Kỳ sở ngôn thuyết, lịnh chúng duyệt phục. Ngôn luận của Bồ Tát chúng sanh nghe rồi đều rất hoan hỉ, đều rất vui lòng đi tiếp nhận, đây tức là duyệt phục.

Kích Pháp cổ, kiến Pháp Tràng, diệu huệ nhật, phá si ám. Bốn câu này là hình dung cũng là tỉ dụ cổ tức là trống, âm thanh này cũng nghe rất xa, cho nên thời xưa khi chiến tranh thì đánh trống chiến, đánh trống xung phong lâm trận.

Đánh trống có thể khiến lòng người phấn chấn, nghe được rất xa, đây là tỉ dụ cho thuyết pháp, tỉ dụ giảng Kinh thuyết pháp dùng chữ kích pháp cổ cùng chuyển pháp luân đều là tỉ dụ cho giảng Kinh thuyết pháp.

Kiến Pháp Tràng đây là tỉ dụ cho xây dựng Đạo Tràng. Xây dựng Đạo Tràng, nếu như không có Đạo Tràng thì sự tu học Phật Pháp chẳng có trung tâm, hoằng dương chẳng có cơ sở.

Cho nên Đạo Tràng vô cùng quan trọng. Nếu như không có Đạo Tràng thì pháp môn này chẳng thể kể như là xây dựng lại tại thế gian này, cho nên tại Trung Quốc Đại Thừa và nhiều tông phái quý vị đều biết có cái gọi là Tổ Đình, Tổ Đình tức là cái Đạo Tràng đầu tiên của họ.

Năm xưa do Tổ Sư xây dựng, như Tịnh Độ Tông của chúng ta cái Đạo Tràng đầu tiên của chúng ta là Huệ Viễn Đại Sư xây dựng tại Lư Sơn, tức là Lư Sơn Đông Lâm Tự hiện nay là mở đầu của Tịnh Độ Tông chúng ta, là bắt đầu. Về sau có Huyền Tông Tự bên Ngũ Đài Sơn là Đạo Tràng của Tịnh Tông Trung Hưng.

Đến năm đầu dân quốc cuối Nhà Thanh, đầu Nhà Minh Ấn Quang Đại Sư ở tại Linh Nham Sơn, Tô Châu, trú ngụ thời gian rất lâu, ở đó chuyên hoằng Tịnh Độ, cho nên linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu, cũng trở thành Đạo Tràng chủ yếu của Tịnh Tông, cho nên hiện nay Đạo Tràng chủ yếu của Tịnh Tông có ba cái, vậy đây là ý nghĩa của chữ kiến Pháp Tràng.

Diệu huệ nhật có được Pháp Tràng, có Đạo Tràng rồi thì mới có thể đem trí tuệ của Như Lai cũng tức là trí tuệ vốn sẵn có của tất cả chúng sanh hiển hiện ra, đây phải nhờ đến sự chỉ dạy tu học Phật Pháp của Phật, thì trí tuệ tài năng của chúng ta mới có thể hiện tiền.

Phá si ám, si ám là ví cho vô minh phiền não, bên trong ý nghĩa rất sâu, rất sâu. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định minh sát, đây là nói về phong độ, phong độ xử thế đối người tiếp vật biểu hiện của Bồ Tát.

Bên trong thuần chất phát mộc mạc thuần chánh ngoài thì ôn hòa đây gọi là thuần tịnh, thanh tịnh thuần phát thanh tịnh, bên ngoài ôn hòa ôn lương hòa mục. Tịch định minh sát chữ tịch định là nhất định phải làm đến. Biết sỉ nhục, biết đủ tri sĩ tri túc thì người này tâm tự nhiên định. Sau khi định rồi thì sanh trí tuệ, đối với tất cả vạn sự vạn vật nhìn thất rất rõ ràng.

Người thông thường tại sao nhìn không thấy được?

Người thông thường mê trong cảnh này, họ có đắc thất. Họ có lợi hại. Có những thứ này thì là mê.

Chúng ta lời tục ngữ thường nói đương cục giả mê, bàng quang giả thanh, bàng quang gì đây?

Họ bên trong chẳng có lợi hại, chẳng có đắc thất, họ nhìn được rõ ràng, khi có đắc thất có lợi hại thì họ đều đem những thứ này đặt ở tiền đề, lấy cái này làm tiêu chuẩn, cho nên thường thường chân tướng sự thật chẳng thấy được. Bồ Tát nội tâm thuần tịnh tịch định, cho nên cách quan sát của họ thường chính xác, minh xác.

Vi đại Đạo Sư, đại Đạo Sư là Phật Bồ Tát có thể gọi như vậy. Bởi vì Bồ Tát có năng lực này. Nên lấy Phật thân mà được độ, Bồ Tát liền hiện Phật thân để độ hóa chúng sanh. Họ quả thật có năng lực này, có bản lãnh này.

Vậy đương nhiên đây là Bồ Tát ba mươi hai ứng thân, đây là một cái, họ cũng có thể lấy Bồ Tát thân cũng có thể lấy thân đồng nam đồng nữ cũng có thể lấy bất cứ loại thân phận nào đây hoàn toàn là quán căn cơ. Chúng sanh ưa thích thân phận gì thì họ liền ứng hóa thân thị hiện.

Điều phục tự tha, câu này bên trong có chữ tự tức là Bồ Tát độ hóa chúng sanh là dùng tự lợi tự lợi lợi tha. Dẫn đạo quần sanh, xả chư ái trước, đây là nguyên tắc của Phật Bồ Tát, chỉ dạy tất cả chúng sanh, điều này quý vị phải ghi nhớ.

Giả như Bồ Tát giáo hoá chúng sanh, dạy anh ái, dạy anh Tham Luyến, đây chẳng phải Phật Pháp, đây nhất định là Ma rồi, Phật Bồ Tát dạy anh, nhất định là dạy anh xả lìa ái dục, đây là Phật Bồ Tát cùng với giáo pháp của Phật tương ưng, nếu như dùng cái ái dục này để độ anh, nói: Cái này cũng có thể thành tựu, đây chẳng phải lời Phật nói. Vĩnh ly tam cấu, tam cấu là tham sân si, vĩnh ly tham sân si, du hí thần thông.

Ở trong thế gian này, chúng ta là thân nghiệp báo, tự mình chẳng làm nổi chủ tể, còn họ là du hý thần thông, họ có thể làm được chủ tể, thích đến là đến, thích đi là đi, Lai khứ tự như, điều này chúng ta ở phía trước từng đọc qua.

Nhân duyên nguyện lực, Phật Pháp từ thuỷ đến chung, chẳng lìa khỏi nhân duyên, chẳng những Phật Pháp chẳng lìa nhân duyên, thế gian pháp cũng chẳng lìa nhân duyên, Phật đặc biệt lại càng coi trọng chữ duyên này, nhân duyên nguyện lực, xuất sanh thiện căn, đây là nhân duyên của Phật Pháp, có thể khiến chúng ta sanh ra thiện căn.

Tồi phục nhứt thiết ma quân, ma quân, là tỉ dụ, tất cả tà ma ngoại đạo. Tôn trọng, phụng sự Chư Phật, vậy ở chỗ này chúng ta cần phải nhận rõ, cái gì là ma, nếu anh chẳng nhận biết ma, thì anh sẽ rơi vào trong cạm bẫy của ma. Chúng ta thường nói, anh thoát ly không khỏi ma chướng.

Anh muốn thoát ly ma chướng, anh nhất định phải nhận biết ma, cái gì là ma?

Chúng ta phải nhớ cho thật kỹ. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, vì chúng ta qui nạp thành bốn loại, bốn đại loại.

Ngũ Ấm là ma, ngũ ấm là gì ?

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chữ tưởng là vọng tưởng, sắc là gì?

Là sắc thân, thân thể này của chúng ta là ma đấy. Anh xem. Hằng ngày phải ăn ba bữa cơm, cực nhọc khổ sở làm việc để nuôi dưỡng nó, ma đấy.

Đây chẳng phải việc tốt, còn chữ tưởng kia tức là vọng tưởng, vọng tưởng là ma, phiền não là ma, sanh tử là ma, còn có các thứ cảnh giới bên ngoài, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, đều ở đó dẫn dụ anh, đó đều là ma, đó gọi là Thiên Ma. Cho nên Thiên Ma, chẳng phải loại mặt xanh nhe răng trên trời, chẳng phải nói loại đó.

Chữ thiên là nói trừ ba loại này ra, phàm những gì có thể dụ hoặc anh, khiến cho thân tâm anh chẳng thể định xuống, chẳng thể khai trí tuệ, cả thảy đều là ma, ma quái quá nhiều quá nhiều. Giống như quân đội vậy, quân đội nhiều nên đem nó tỉ dụ như là ma quân. Nhất định phải có định, có tuệ, anh mới có thể hàng phục nó.

Tôn trọng phụng sự Chư Phật, chúng ta có thể hàng ma, tức là nói, trong chẳng động tâm, ngoài chẳng nhận dụ hoặc, vậy thì là hàng ma rồi, nhiên hậu nhất tâm nhất ý học Phật, theo Chư Phật Bồ Tát học tập, chúng ta ngày nay là theo A Di Đà Phật Học tập, A Di Đà Phật là ở ngay trong bộ Kinh Điển này, y chiếu theo Kinh Điển này học tập, tức là theo A Di Đà Phật Học tập vậy.

Vi thế minh đăng, tối thắng phước điền, người có thể tu học như vậy thì họ là ngọn đèn sáng của thế gian này, người thế gian đều mê hoặc điên đão, mà họ thì không mê, họ không nhiễm, họ không tà, họ không điên đão, có thể làm gương mẫu cho người thế gian. 

Chỉ dẫn một con đường quang minh hạnh phúc cho thế gian, đây tức là thế gian minh đăng, phước điền tối thù thắng. Thù thắng cát tường, kham thọ cúng dường, câu kham thọ cúng dường này, bên trong ý nghĩa rất sâu.

Tại vì sao?

Bởi vì họ là phước điền tối thù thắng. Chúng ta muốn trồng phước, muốn tu phước, thật tại mà nói, chẳng biết đâu là phước điền. Thường thường chúng ta phát xong hảo tâm, muốn đi tu phước, kết quả đã làm việc xấu mà chẳng hay biết.

Trước kia Đạo Nguyên Lão Hoà Thượng có kể cho chúng tôi một câu chuyện, tức là nói tỉ dụ, người ngu si tu phước, trồng sai phước điền, Ngài dùng tỉ dụ để kể rằng: Có một người chủ nhân có nuôi một con vật sùng ái, con vật đó là một chú khỉ, chủ nhân rất ưa thích nó, vô cùng thương yêu bảo hộ nó, chú khỉ này đối với chủ nhân cũng tốt vô cùng. Cũng rất biết ý của chủ nhân.

Có một hôm, người chủ nhân đang ngủ trưa, có một con ruồi đậu ngay trên mũi của chủ nhân, chú khỉ thấy được, vô cùng tức giận, lấy hòn đá để đập chết ruồi kia. Chú khỉ có lòng tốt, lấy đá để đuổi con ruồi, nào ngờ ruồi chưa đuổi kịp thì đem cái mũi của chủ nhân mình đập bể mất.

Đây ví cho ngu si chẳng có trí tuệ, đã trồng sai phước điền. Cho thấy rằng trồng phước điền chẳng phải là một việc dễ dàng. Vậy thì có đức lớn như vậy, Bồ Tát có trí tuệ, có đức năng.

Chúng ta đi nương tựa họ, chúng ta đi cúng dường họ, cúng dường họ những gì?

Họ trồng phước giùm cho chúng ta, chúng ta tự mình chẳng thể trồng phước, họ sẽ trồng giùm cho chúng ta, ý nghĩa này ở chỗ này.

Họ là tối thù thắng, tối kiết tường. Kham thọ cúng dường, Phật nói ở chỗ này khích lệ chúng ta nên cúng dường nhóm Bồ Tát này. Họ làm những sự nghiệp, chúng ta đều nở mặt, chúng ta đều có một phần công đức lợi ích chân thật. Hách dịch hoan hỷ, hách dịch là vẻ bừng thạnh, là hình dung, hùng mãnh vô úy.

Thân sắc tướng hảo, công đức biện tài, Cụ Túc trang nghiêm, vô dữ đẳng giả, chẳng có ai cùng họ ngang bằng, thật tại là không những nhóm Bồ Tát này tự phần tu hành, tinh tấn dũng mãnh, vả lại còn được Di Đà oai thần gia trì, mười phương Như Lai hộ niệm, cùng những Bồ Tát thông thường so sánh, đương nhiên là siêu thắng hơn.

A Di Đà Phật cùng Chư Phật so sánh siêu thắng hơn Chư Phật vậy, Bồ Tát của Tây Phương Thế Giới, cùng Bồ Tát của tha phương Thế Giới so sánh nhất định cũng siêu thắng, chẳng thể bằng được.

Thường vi Chư Phật, sở cộng xưng tán, cứu cánh Bồ Tát Chư Ba La Mật. Bồ Tát của Cực Lạc Thế Giới thường thường được mười phương tất cả Chư Phật Như Lai tán thán. Trong Bồ Tát Đạo, họ đích thật rất là viên mãn thành tựu. Chữ Chư Ba La Mật tức là viên mãn thành tựu.

Nếu như nghiêm khắc chỉ cho Bồ Tát hạnh tức là Lục Độ: Từ bố thí, trì giới… đến Bát Nhã đều làm đến chỗ rất viên mãn. Nhi thường an trụ, bất sanh bất diệt, Chư Tam ma địa. Hành biến Đạo Tràng, viễn Nhị Thừa cảnh. Đây là sự thành tựu chứng quả của Bồ Tát.

Thường là chẳng phải những người giả vờ nhập định thông thường, người có định công cạn, cần phải nhập định họ mới có thể nhập vào cảnh giới định, người có định công sâu, đi đứng nằm ngồi đều ở trong định, chẳng cần phải nhập định, thường là ý nghĩa này.

Đi đứng nằm ngồi đều ở trong định. Trụ tam ma địa, tức là ở trong định. Hành biến Đạo Tràng, Đạo Tràng là mười phương tất cả Phật sát, Bồ Tát thường hay đi du lịch không ngừng.

Viễn Nhị Thừa cảnh, là họ tuyệt đối sẽ chẳng đọa vào Nhị Thừa, Nhị Thừa này là người tiểu thừa, chỉ có tự lợi chẳng chịu lợi tha.

Cực Lạc Thế Giới Bồ Tát chẳng có cái niệm này, niệm niệm đều lợi ích tất cả chúng sanh, niệm niệm đều khuyên người Vãng Sanh Tịnh Độ, chỉ có Vãng Sanh Tịnh Độ mới là lợi ích chân thật cứu cánh, thì là lập tức có được lợi ích, điều này phải biết.

A Nan! Ngã kim lược thuyết, Phật gọi A Nan Tôn Giả, trên đại hội này chỉ giới thiệu sơ lược mà thôi. Bỉ Cực Lạc giới, sở sanh Bồ Tát, chân thật công đức, tất giai như thị.

Đây là nói với chúng ta, Bồ Tát chỗ sanh, chúng ta sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới công đức chân thật thì giống như Phật chỗ nói: Nhược quảng thuyết giả, bá thiên vạn kiếp, bất năng cùng tận, Phật là đơn giản giới thiệu, nếu như nói kỹ thì là quá nhiều. Nói không hết. Trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đều nói không hết.

Cái thù thắng của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, chúng ta từ chỗ này cũng có thể thể hội dược một tí, phẩm phía dưới đây cũng là một đoạn khai thị rất quan trọng của bổn Kinh.

Vậy ở chỗ này cũng đặc biệt dặn dò kỹ lưỡng. Từ phía trước cho đến phẩm thứ ba mươi mốt. A Nan Tôn Giả làm đương cơ, Phật đều gọi A Nan, A Nan, bắt đầu từ phẩm này Di Lặc Bồ Tát làm đương cơ.
 

THỌ LẠC VÔ CỰC

ĐỆ TAM THẬP NHỊ


Mà từ phẩm này trở xuống tổng cộng có sáu phẩm Kinh có thể nói là đối với chúng ta mỗi một người hy vọng cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Trong sinh hoạt ngày thường, chúng ta phải nên làm thế nào, phải tu trì cách nào, đây là cương lĩnh chân thật, là sự giáo huấn trọng yếu.

Cho nên các bạn đồng học Tịnh Tông chúng ta đêm đoạn Kinh Văn này chọn làm khóa tối, vì chúng ta chẳng có thời giờ, mỗi ngày đọc toàn bộ Kinh Vô Lượng Thọ chẳng thể niệm toàn bộ. Chúng ta khóa sáng niệm phẩm thứ sáu, còn khóa tối niệm phẩm ba mươi hai đến ba mươi bảy, niệm sáu phẩm này.

Đây là dạy cho chúng ta tu trì cách nào, lời giáo huấn trong đó. Những việc gì Phật cấm chúng ta làm thì chúng ta không nên làm, những việc gì Phật dạy chúng ta nhất định phải làm, thì chúng ta phải thiết tha nỗ lực để làm vậy thì là đúng, xin xem Kinh Văn.

Phật cáo Di Lặc Bồ Tát, Chư Thiên Nhân đẳng, Di Lặc là thượng thủ.

Lúc bấy giờ số người tham gia Pháp Hội rất đông, nói Chư Thiên, Di Lặc Bồ Tát là vị Đại Bồ Tát của Đâu Suất Thiên nên phía dưới có Chư Thiên Nhân đẳng: Vô Lượng Thọ quốc, Thanh Văn Bồ Tát, công đức trí tuệ, bất khả xưng thuyết, điều này chúng ta chẳng cần nói kỹ nữa. Phía trước đều đã giảng rất nhiều rồi. Hựu kỳ Quốc Độ, vi diệu an lạc, thanh tịnh nhược thử.

Tại sao Phật không gọi A Nan mà gọi Di Lặc Bồ Tát?

Chúng ta từ câu nói phía dưới của Thế Tôn thì hiểu rõ ngay. Nói đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Thanh Văn Bồ Tát, công đức trí tuệ, lại nói đến Tây Phương Thế Giới Quốc Độ vi diệu an lạc thanh tịnh, như vậy. Bởi vì Di Lặc Bồ Tát thường hay đi vậy. Vừa mới đề ra thì thân thiết biết mấy. 

A Nan Tôn Giả vẫn chưa thấy được, nói với Ngài cách nào Ngài cũng chẳng thể hội đến được, Di Lặc Bồ Tát thường đi, nên gọi Di Lặc Bồ Tát nói, đây thì là vô cùng, vô cùng thân thiết.

Đây là nói Di Lặc Bồ Tát ông biết, kẻ khác không biết ông đã đi qua, thường đi, ông phải rất rõ ràng minh bạch đấy. Ý nghĩa là ở chỗ này.

Hà bất lực vi thiện, niệm đạo chi tự nhiên, hai câu nói này là khích lệ Di Lặc Bồ Tát, đồng thời cũng khích lệ đại chúng dự hội, vì sao chẳng nỗ lực tu thiện?

Tại sao chẳng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ?

Thật tại mà nói niệm đạo chi tự nhiên tức là khuyên chúng ta phải tin sâu phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Cầu sanh Tịnh Độ mới là niệm đạo chi tự nhiên. Nếu như nghiêm khắc thật tại mà nói, niệm Nam Mô A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật tức là đại đạo chi tự nhiên. Bởi vì bổn Kinh, Phật vì chúng ta nói ra, câu Phật hiệu này tức là Đức Hiệu của tự tánh chúng ta.

Đức Hiệu của tự tánh đó chẳng phải tự nhiên thì là gì?

Điều này phải biết. Đồng thời là danh hiệu của Tây Phương Đạo Sư, cũng là cách xưng hô tánh đức của chính mình. Xuất nhập cúng dường, quán Kinh hành đạo, hỷ lạc cửu tập, tài mãnh trí tuệ, tâm bất trung hồi, ý vô giải thời.

Ngoại nhược trì hoãn, nội độc sử cấp, dung dung hư không, thích đắc kỳ trung, trung biểu tương ưng, chúng ta xem đoạn này trong đây hình dung Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Bồ Tát, thật tại mà nói những lời này Phật chẳng đối A Nan nói mà đối Di Lặc nói.

Phía trước đối A Nan nói, nói được cạn chúng ta nghe rồi cũng có thể tiếp nhận, cũng có thể nghe hiểu được. Còn đối Di Lặc Bồ Tát nói đó thì nói được sâu, chúng ta chẳng dễ thể hội.

Tuy nhiên không thể không nói, tại sao vậy?

Nói ra rồi, chúng ta mới biết Tây Phương quả thật, đệ nhất thù thắng không gì sánh bằng. 

Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đều hay ho lợi ích chúng ta có thể thể hội phẩm Kinh này thì làm gì có cái lý chẳng phát tâm cầu sanh chứ?

Xuất nhập cúng dường, xuất là đến tha phương Thế Giới cúng dường Chư Phật Như Lai. Nhập là trở về, trở về lại nhà cúng dường Bổn Sư A Di Đà Phật Như Lai, xuất nhập cúng dường, tu phước đấy. Đây là cúng dường tu phước. Quán Kinh hành đạo, là tu tuệ đấy. Quán Kinh chẳng nói đọc Kinh, chẳng nói nghiên cứu Kinh.

Đọc, nghiên cứu đối với ý Kinh chẳng có thấu triệt hiểu rõ, quán là thấu triệt hiểu rõ, quán là quán chiếu, hoàn toàn là dùng bát nhã, chẳng dùng tâm ý thức. Hành đạo là thân ngữ ý tam ý chi hành cùng tâm tánh hoàn toàn tương ưng, cùng bát nhã hoàn toàn tương ưng, cái này gọi là hành đạo, đây là thuộc về tu tuệ.

Phước tuệ song tu đấy. Hỷ lạc cửu tập, là hoan hỉ khoái lạc, vĩnh viễn đang tu học, lại càng thâm nhập. Tài mãnh trí tuệ, là giống như phía trước, giống như A Di Đà Phật Cao tài dũng triết, A Di Đà Phật tại nhân địa, thị hiện đó là thì cao tài dũng triết, chẳng giống như chúng ta ngu si thế này.

Tuy nhiên chúng ta sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới oai thần của Phật vừa gia trì chúng ta cũng trở thành cao tài dũng kiết vậy. Vừa đến Cực Lạc Thế Giới thì biến chất rồi, Phật lực gia trì, lực lượng này bất khả tư nghì.

Tâm bất trung hồi, hồi là hồi chuyển, tức là nghĩa thối chuyển. Tâm bất trung hồi, là nói tín tâm kiên định, quyết định chẳng thối chuyển. Chư vị đồng tu nên biết, chỗ này Ngài nói đó là Cực Lạc Bồ Tát. Chư Phật Như Lai tại mười phương Thế Giới thành Phật tu học pháp môn khác nhau.

Như chúng ta hiện nay chỗ nói, chỗ biết, có người học Thiền, có người học Mật, có người học Giới Luật, có người học Giáo… Cực Lạc Thế Giới Bồ Tát ngày ngày đều đi ra ngoài tham võng, đi tiếp xúc họ, nghe họ giảng Kinh nói pháp, vẫn là lão thật niệm A Di Đà Phật, chẳng bị ảnh hưởng của họ.

Theo vị Bồ Tát này: Ô! Thiền được lắm. Mình theo họ học Tham Thiền.

Theo vị Bồ Tát kia: Mật cũng hay. Theo họ niệm chú. Vậy thì tâm này bị trung hồi rồi.

Chính giống như Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham, Thiện Tài Đồng Tử tu pháp môn gì?

Là Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, năm mươi ba vị thiện tri thức, trừ Tỳ Kheo Đức Vân và Phổ Hiền Bồ Tát, hai vị này là tu pháp môn Niệm Phật ra, năm mươi mốt vị thiện tri thức kia, pháp môn chỗ học mỗi vị đều khác nhau.

Thiện Tài Đồng Tử đi tham phỏng, thứ thứ đều rõ ràng, thứ thứ đều thấu hiểu, xong vẫn là lão thật niệm Phật chẳng thay đổi, chúng ta làm sao biết được Thiện Tài Đồng Tử là học pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ?

Vì thầy của Ngài là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta đừng quên rằng thầy của Ngài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tại trong Kinh Hoa Nghiêm là phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ.

Thầy cầu sanh Tịnh Độ thì môn sinh đắc ý nhất của thầy còn có thể bảo ông ta tu pháp môn khác được sao?

Đương nhiên là đem pháp môn đệ nhất thù thắng không gì sánh bằng để truyền cho học trò chứ. Cho nên học trò nhất định là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Anh xem. Vừa tham phỏng, là Tỳ Kheo Đức Vân khuyên Ngài niệm Phật, nhập trước làm chủ, đến sau cùng Phổ Hiền Bồ Tát Mười Đại Nguyện Vương dẫn về Cực Lạc triệt thủy triệt chung một câu Phật hiệu niệm Phật Vãng Sanh.

Tâm bất trung hồi, Bồ Tát của Tây Phương Thế Giới, người người hàng ngày chỗ tu đều là năm mươi ba tham, đó chẳng phải là thiện tri thức thông thường, họ tham phỏng đó là mười phương Chư Phật Như Lai một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Hoàn toàn giống như Đại Thế Chí Bồ Tát chẳng khác.

Ý vô giải thời, là một mực tinh tấn, chỉ một mục tiêu, một phương hướng, đúng là trong Tam Bối Vãng Sanh chỗ nói nhất hướng chuyên niệm.

Ngoại nhược trì hoãn chữ trì hoãn là giống như rất an nhàn, giống như rất vô sự. Từ tối đến sáng chẳng có việc chi tiêu diêu tự tại. Anh nhìn thấy những vị Bồ Tát này người người đều là chẳng có việc gì hết, tiêu diêu tự tại.

Trên thực tế thì nội độc sử cấp, họ bên trong quả đang dụng công, từ trước đến nay chẳng có giải đãi, họ dụng công gì?

Là nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, cái niệm trong tâm chẳng trung đoạn, anh xem cái dáng của họ rất nhàn hạ rất tự tại, rất vui vẻ giống như từ sáng đến tối chẳng có việc gì làm vậy. Mà câu Phật hiệu kia của họ thì miên miên mật mật từ trước đến nay chẳng có trung đoạn.

Dung dung hư không, thích đắc kỳ trung, dung dung là nghĩa hòa kính, tức là trong Phật Môn chúng ta cũng là giới điều rất quan trọng, Lục Hòa Kính: Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân, dung dung tức là Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đại chúng, anh xem. 

Họ vô cùng hòa mục sống chung, người như thế đó sống chung một nơi khác nào như cha con anh em vô cùng thân ái, chẳng có một tí ý kiến, hòa mục biết bao.

Hư không là gì?

Mỗi người tâm đều thanh tịnh, giữa hư không một vật cũng chẳng có tâm thanh tịnh, tâm quảng đại, người người đều là như vậy dung dung hư không là ý nghĩa này. Tâm lượng quảng đại, thanh tịnh chẳng gì bằng. Thích đắc kỳ trung chữ trung là trung đạo.

Phật dạy chúng ta dùng trung. Nhà Nho Khổng Lão Phu Tử cũng dạy chúng ta dùng trung, Phật giảng trung đạo đấy, Nhà Nho giảng Trung Dung.

Đại Thánh Nhân của thế xuất thế gian đều hiểu được, dùng trung. Trung tức là chẳng thiên lệch viên dung tu đạo, biết được dùng trung thì có thể đạt được lý sự vô ngại, sự sự vô ngại. Vì nó chẳng thiên lệch ấy mà, trung thì là bình đẳng rồi.

Còn thiên?

Tâm thiên rồi thì là không bình đẳng, họ có thiên ái, có thiên sai, trung thì chẳng có thiên sai, phải nên biết dùng trung. Bồ Tát của Tây Phương Thế Giới người người đều biết dùng trung trung biểu tương ưng. Phía dưới chữ trung này là tâm.

Biểu là biểu hiện ở bên ngoài. Hai chữ trung này. Chữ trung phía dưới cùng chữ trung phía trên ý nghĩ hoàn toàn khác nhau.

Chư vị phải hiểu, chữ trung phía trên là nghĩa trung đạo, chữ trung phía dưới là trung tâm, là trung tâm là bên trong. Tức là biểu lý nhất như, tuyệt đối chẳng có hư giả, biểu lý nhất như. Cho nên nội ngoại hoàn toàn như nhau, tâm của anh cùng với chỗ biểu hiện bên ngoài của anh sở tác, sở vi hoàn toàn tương ưng.

Đây là biểu lý nhất như, đích thật cảnh giới này tức là chúng ta thường nói: Vạn pháp viên dung, sự sự vô ngại họ đều đạt đến cảnh giới này. Tự nhiên nghiêm chỉnh, là tự tự nhiên nhiên nghiêm trang, chỉnh tề. Bất luận là sự việc gì đều là tự nhiên trang nghiêm chỉnh tề, kiểm liễm đoan trực.

Thân tâm khiết tịnh, vô hữu ái tham, vậy chỗ này nói về nội đức của Ngài, là nói tâm địa của Bồ Tát, cách nói này của Thế Tôn ý nghĩa chơn thật là chỉ dạy chúng ta. Chúng ta nên phải nên học tập.

Kiểm là kiểm điểm, tức là chúng ta thường thường nói phản tỉnh, liễm là thu liễm, chúng ta nếu như nói đến chơn chánh tu hành, sáng tối hai thời công khóa, khóa sáng là đánh thức chúng ta đừng nên quên mất, chúng ta trong một ngày hôm nay, phải tuân thủ lời giáo huấn của Phật, tu chính tự mình tư tưởng kiến giải hành vi.

Khóa tối là phản tỉnh, khóa tối thật lòng nghĩ lại, trong một ngày hôm nay Phật chỉ dạy chúng ta, chúng ta có làm đến chưa?

Nếu như chưa làm, ngày mai gấp rút phải làm, những gì đã làm phải bảo trì đàng hoàn, đừng nên đem nó đánh mất. Đây là thật sự làm khóa sáng tối vậy.

Là chân chánh tu hành, tuyệt đối chẳng phải sáng đem Kinh niệm một biến cho Phật, Bồ Tát nghe: Ngài coi tôi đây rất ngoan, tôi đều niệm cho Ngài nghe rồi, đến tối niệm một biến cho Ngài nghe cái này gọi là phù diễn tắc trách Phật, Bồ Tát đâu cần nghe những thứ này của anh làm gì.

Cho nên chúng ta đứng trước hình tượng của Phật Bồ Tát, niệm Kinh là cầu Phật chứng minh cho chúng ta, tôi nhất định phải tuân thủ lời dạy của Phật, phải hết lòng nỗ lực đi làm, cho nên tu hành. Tu là tu chỉnh. Cách nghĩ, cách nhìn, cái nói, cách làm của chúng ta sai rồi.

Y theo lời giáo huấn của Phật, đem nó tu chính trở lại đây gọi là tu hành. Cho nên khóa sáng là đánh thức tự mình, khóa tối là phản tỉnh. Kiểm liễm đoan trực đoan là đoan chính, trực là chánh trực, đều là từ trên tâm hành mà nói. Thân tâm khiết tịnh. Tâm thanh tịnh thì thân tự nhiên thanh tịnh. Cho nên thân sẽ chẳng sanh bệnh.

Có rất nhiều người, có nhiều đồng tu mối âu lo lớn nhất là: Nếu sanh bệnh thì làm sao đây?

Quý vị thử nghĩ phải làm sao?

Họ thật sẽ sanh bệnh, họ quyết định chẳng có biện pháp, tại sao thế?

Vì tất cả đều từ tâm tưởng sanh. Họ bây giờ chẳng có bệnh mà ngày ngày muốn sanh bệnh thì họ làm sao chẳng sanh bệnh chứ. Họ nhất định sẽ sanh bệnh. Đây là sai lầm. Cách nghĩ sai lầm.

Nên đem nó tu chính trở lại, tu chính cách nào?

Niệm A Di Đà Phật thì không sanh bệnh.

Quý vị có bao giờ thấy A Di Đà Phật sanh bệnh chưa?

Cho nên chúng ta ngày ngày niệm A Di Đà Phật thì sẽ không sanh bệnh, tâm lý phải khỏe mạnh. Họ chẳng khởi chánh niệm mà ngày cứ sanh tà niệm. Muốn bệnh tức là tà niệm. Trong tâm không thanh tịnh. Chúng ta niệm Phật, tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì thân thanh tịnh, thân tâm không thanh tịnh sẽ sanh bệnh.

Thân thanh tịnh sao có thể sanh bệnh được?

Chẳng tu tâm thanh tịnh, chẳng tu thân thanh tịnh ngày ngày ở đó ô nhiễm, tưởng bệnh, tưởng khổ, tưởng chết đều là ô nhiễm.

Ô nhiễm nghiêm trọng đấy. Phật trong Kinh chẳng có dạy chúng ta những việc này. Vô hữu ái tham, ái tham là ô nhiễm nặng nhất, tâm có ái tham thì thân chẳng thanh tịnh thì sẽ thường thường sanh bệnh. Người nếu chẳng có ái tham, người này nếu có bệnh thì hầu như chẳng thể được.

Cho nên nếu anh gặp những người sanh bệnh, anh hỏi họ: Có phải anh có ái có tham không?

Họ nhất định sẽ nói: Có! Tôi ở Đài Loan, ở nước ngoài cũng gặp được nhiều người trẻ tuổi họ bị ma quỷ nhập vào, bị nó khống chế, rất chẳng tự tại. Tức là chúng ta thường hay nói ma nhập. Họ tự mình rất rõ ràng thường thường ma đến quấy nhiễu hoặc giả thấy tướng quái lạ hoặc nghe âm thanh, thân không làm chủ được, bị lực lượng bên ngoài khống chế, họ đến hỏi tôi.

Có những người bị một hai năm thời gian rất lâu rồi, đến hỏi tôi: Có biện pháp gì có thể lìa khỏi cảnh ma này?

Thì câu hỏi đầu tiên tôi hỏi họ là: Có phải anh rất thích thần thông không?

Họ nói: Phải! Tức là ái tham thần thông, cho nên ma đến nhập vào thân. Nếu anh có nhiều chuyện thần thông cảm ứng, hoàn toàn chẳng điếm xỉa đến thì một đời anh tuyệt đối chẳng bị ma chướng. Điều là vì bởi yêu thích thần thông, ưa thích cảm ứng.

Tuổi còn trẻ măng. Đều là Đại Học tốt nghiệp, học hành cũng rất tốt, rất giỏi, mắc phải phiền phức này, thật là đáng thương. Đến cuối cùng kết quả là họ vô bệnh viện tâm thần, Bác Sĩ không gọi là ma nhập, Bác Sĩ gọi là chứng thần Kinh phân liệt. Anh bảo. Đáng thương biết mấy.

Nguyên nhân là vậy?

Là tham ái thần thông, tạo lấy phiền phức này. Cho nên vô hữu ái tham đây là lời dạy bảo của Phật đối với chúng ta, chẳng những thế gian pháp chúng ta chẳng có ái tham mà Phật Pháp cũng chẳng có ái tham.

Chúng ta ngày nay cũng có lão thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đối với Tây Phương Cực Lạc Thế Giới các thứ trang nghiêm cũng chẳng phải ái tham mới có thể đi được. Dùng ái tham, dùng cái tâm ái tham không thể sanh về Tịnh Độ được.

Vậy Phật nói với chúng ta trạng huấn sinh hoạt ở bên đó tất cả đều là tự nhiên nghiêm chỉnh, nếu ái tham thì là chẳng tự nhiên rồi. Ái tham thì phải đi thiết kế, kinh doanh. Chẳng có ái tham thì là tự nhiên, là tự nhiên nghiêm chỉnh chẳng phải nhân tạo, kế hoạch thiết kế, kinh doanh chẳng phải những thứ này.

Chí nguyện an định, vô tăng khuyết giảm, chẳng có tăng gia, cũng chẳng có giảm thiểu, đây là hình dung. Chí nguyện an định định là nhất, chuyên niệm A Di Đà Phật, thì lấy cái này để trang nghiêm Tịnh Độ.

Cho nên chúng ta cùng tất cả cả pháp thế và xuất thế gian tất cả pháp chúng ta tri túc, chúng ta tri sĩ. Cầu đạo hòa chánh, hòa là bình hòa, trung chánh. Bất ngộ khuynh tà.

Chẳng theo tà môn ngoại đạo, không thể đầu cơ thủ xảo, cái đó là sai lầm. Đó là khuynh tà. Khuynh là đế ngã, tà là bất chánh. Tùy Kinh ước lịnh, câu này vô cùng quan trọng.

Bảo chúng ta y giáo tu hành, chúng ta phải tùy thuận theo lời chỉ bảo trong Kinh Điển. Chữ ước lịnh tức là giáo huấn. Ước là Phật qui định điều khoản cho chúng ta, lệnh là mệnh lệnh của Chư Phật đối với chúng ta, đây tức là chỉ cho lời giáo huấn trong Kinh Điển. 

Bất cảm tha điệt, ý nghĩa này tức là phải tuân thủ, bất cảm tha điệt là nghĩa trái ngược quyết định không giám trái ngược. Nhược ư thằng mặc, thằng mặc là tỉ dụ chánh tâm chánh hạnh, thằng mặc tức là vây mực.

Hiện nay, đã chẳng thấy nữa, lớp người già, có lẽ những người ở trạc tuổi như tôi có lẽ anh nói vây mực có thể họ vẫn còn ấn tượng, ngày xưa anh thợ mộc muốn cưa gỗ không như bây giờ dùng thước vẽ bằng mực không phải vậy, họ là dùng một cái đẩu gỗ và một sợi dây.

Tức là dùng một ống mực gỗ. Một đầu dùng đinh đóng xuống, kéo một sợi dây thẳng rồi búng một cái ra một đường thẳng, theo đường này mà cưa đó gọi là thằng mặc.

Hiện nay không còn dùng nữa hiện nay dùng cơ giới để vẽ đường tuyến, vẽ rất thẳng. Máy cưa cũng là cơ giới căn bản chẳng cần vẽ đường thẳng.

Qui cách của nó so với xưa kia tiến bộ quá nhiều, chữ thằng mặc ở chỗ này là tỉ dụ tâm chánh, hạnh chánh cùng với biết trước bất cảm tha điệt chẳng giám trái ngược, y giáo phụng hành. Phật dạy chúng ta làm cách nào thì chúng ta làm thế đó. Hàm vi đạo mộ.

Quảng vô tha niệm, vô hữu ưu tư, ý này nói: Bồ Tát bình thường, chỗ suy tư chỗ ngưỡng mộ.

Mộ là gì?

Là ngưỡng mộ, ngưỡng mộ là đạo. Vô Thượng Bồ Đề đại đạo. Trong tâm chúng ta chỉ hâm mộ cái này. Ngoài Vô Thượng Bồ Đề đại đạo ra chẳng có chi đáng được hâm mộ.

Cho nên nói quảng vô tha niệm, quảng là trong tâm sạch sẽ rốt ráo trống trải thênh thang, chẳng có vọng tưởng, họ chẳng có vọng tưởng. Vô hữu ưu tư, ưu là ưu lự, lo lắng. Đây đều là nói về ưu tư, chẳng có ưu tư, chẳng có lo lắng cho nên người ta tâm thanh tịnh.

Tự nhiên vô vi, hư không vô lập. Đạm an vô dục, tác đắc thiện nguyện, tận tâm cầu sách, hàm ai từ mẫn, lễ nghĩa đô hiệp, bao la biểu lý, quá độ giải thoát. Đến chỗ này là một đoạn.

Tự nhiên vô vi, cái tâm này tự tự nhiên nhiên an trụ tại trong pháp vô vi, cái gì gọi là vô vi?

Phàm là những gì có sanh diệt đều là hữu vi, những gì chẳng có sanh diệt là vô vi. Thiên Thân Bồ Tát trong Bách Pháp Minh Vô Lượng đem tất cả pháp qui nạp thành một trăm đại loại.

Trong một trăm đại loại này, phần trước chín mươi bốn loại là pháp hữu vi, phần sau sáu thứ là pháp vô vi. Trong pháp hữu vi cái thứ nhất là tâm pháp, cái thứ hai là tâm sở hữu pháp. Tâm pháp này tức là bát thức đấy. Hữu vi pháp, chỗ này nói tự nhiên vô vi.

Anh xem! Người ta tâm, tâm sở đều chẳng trụ, điều này cao minh đến cực độ. Kỳ thật tức là trong Kinh Lăng Nghiêm.

Gia Quang Pháp Sư phần chú giải chỗ nói xả thức dụng căn tức là gì?

Tâm, tâm sở đã mất rồi. Dùng căn, dùng tánh trong căn. Chúng ta thấy. Mắt thấy. Chẳng dùng nhãn căn thấy mà dùng tánh thấy để thấy. Chúng ta nghe, chẳng dùng nhĩ thức để nghe mà dùng tánh nghe để nghe thì đây gọi là Trụ Vô Vi Pháp.

Cái này tức là tự nhiên vô vi. Họ là được A Di Đà Phật gia trì cho nên tự nhiên vô vi. Kỳ thật pháp vô vi thật sự là tự nhiên. Nếu muốn cố gắng làm như vậy, thì anh đã rơi vào tâm ý thức rồi. Anh đã chẳng phải là pháp vô vi mà là pháp sanh diệt rồi. Cho nên cái này đích thực là công phu chân thật.

Đây là Phật lực gia trì. Hư không vô lập, cái tâm này nhất định phải giống như hư không, một pháp chẳng lập, mới có thể đạt đến cảnh giới này.

Phải làm đến đạm an vô dục, đạm bạc an nhiên chẳng có tất cả âu lo. Thế gian ngũ dục lục trần. Chẳng còn nữa, trong Phật Pháp cái dục của sự tu hành chứng quả cũng chẳng còn thì anh mới có thể đạt đến.

Trong Kinh Phật nói với anh làm sao để tu hành chứng quả Bồ Tát Vị Tứ?

Nói với anh đó là cách nói đối với hạng người trung hạ, còn đối với hạng người cao đẳng tu hành, những thứ này đều chẳng có. Nếu như còn những thứ này thì anh vẫn còn phân biệt chấp trước.

Vậy anh làm sao có thể thành tựu?

Trong Phật Pháp cao cấp chẳng có những thứ này. Trong đoạn này nói đó thuần túy là Phật Pháp cao cấp, cái này chẳng phải đối với những người trung hạ chỗ nói. Cho nên Phật phải gọi Di Lặc Bồ Tát để nói với ông ta mà chẳng gọi A Nan, ý nghĩa này rất sâu.

Tác đắc thiện nguyện tận tâm cầu sách, chữ cầu sách này tức là thường gọi thiện xảo, phương tiện. Thiện nguyện, Chư Phật độ chúng sanh thành Phật đạo, đây tức là thiện nguyện. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện chúng sanh vô biên thệ nguyện độ Bổn Kinh, A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện đây là thiện nguyện chân thật.

Chúng ta ngày nay làm đệ tử của Phật, những vị Bồ Tát này cũng là đệ tử của Phật. Nhất định là vậy. Toàn tâm toàn lực giúp đỡ Phật phổ độ chúng sanh đây tức là tác đắc thiện nguyện, tận tâm cầu đắc, đi tìm những phương pháp thiện xảo phương tiện, chúng ta phải chú trọng đến phương pháp.

Như ngày nay trong thời đại này, thời đại này là thời đại khoa học kỹ thuật, một thời đại phát triển nhanh chóng, chúng ta bèn lợi dụng công cụ của khoa học đem Phật Pháp phát dương quang đại, đem Phật Pháp truyền bá cho quảng đại quần chúng, đây tức là tận tâm cầu sách. Chúng ta phải lợi dụng công cụ của khoa học giúp Phật Hoằng Pháp lợi sanh.

Hàm ai từ mẫn, chữ ai là đại bi tâm. Từ mẫn là đại từ. Hàm ai từ mẫn, trên thực tế tức là đại từ đại bi. Bi là thấy chúng sanh khổ. Chúng ta sanh cái tâm lân mẫn giúp đỡ họ lìa khổ. Từ là cho chúng sanh niềm vui, chúng ta phải giúp đỡ họ có được cái vui.

Trong cái vui này, thật tế nhất, cứu cánh nhất viên mãn nhất là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Y theo phương pháp của Kinh Vô Lượng Thọ để tu học, chẳng những tương lai có được lợi ích chân thật viên mãn, hiện tại thì có được sự vui vẻ chân chánh. 

Hiện tại có được thì gọi là hoa báo, Vãng Sanh bất thối thành Phật là quả báo. Hoa quả đều thù thắng không gì sánh bằng. Biểu hiện ở bên ngoài.

Lễ nghĩa đô hiệp, hằng thuận chúng sanh, tỳ hỉ công đức, đối với thế gian pháp tuyệt đối chẳng phá hoại, thế gian pháp thứ thứ đều chú trọng, thứ thứ đều tuân thủ, lễ của thế gian, nghĩa của thế gian. Đây tức là chúng ta thường nói, chúng ta học Phật phải biết hiện đại hóa và bổn thổ hóa.

Tỉ như chúng ta sống tại Tân Gia Ba, pháp luật của Tân Gia Ba chúng ta nhất định phải tuân thủ, pháp luật này mỗi một Quốc Gia địa phương đều có nhiều sự khác biệt. Đến địa phương nào thì nhất định phải tuân thủ pháp luật của địa phương đó. Phải tuân thủ phong tục tập quán của địa phương đó.

Vậy mới có thể được sự hoan nghênh, ưa thích của người địa phương, họ hoan hỉ tiếp nhận. Cho nên nhất định phải biết được hiện đại hóa và bổn thổ hóa. Câu lễ nghĩa đô hiệp tức là hiện đại hóa và bổn tổ hóa.

Bao la biểu lý, biểu là sự. Lý là đạo lý. Chỗ có tất cả sự lý cả thảy đều bao gồm ở trong đó. Quá độ giải thoát, quá là siêu quá. Độ là độ thoát.

Có thể khiến tất cả chúng sanh giống Phật Bồ Tát chẳng khác, siêu việt thù thắng. Bằng pháp môn này trong một đời đạt được giải thoát, đích thật siêu hóa, đây là siêu việt các pháp môn khác. So sánh với các pháp môn khác thù thắng hơn. Giải thoát ở chỗ này đều là nói quả giác của sự tu hành.

A Di Đà Phật!

***