Thuaàn tònh thuaàn thieän
Phöôùc hueä song tu

hoathuongtinhkhong.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP MƯỜI HAI

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MƯỜI HAI
 

Xin lật Kinh bản, đây là hai đoạn chót của đại nguyện, hai đoạn này tổng cộng có năm nguyện, là sự lợi ích củ A Di Đà Phật, đối với mười phương Bồ Tát, văn danh chỗ gia trì. Do đây có thể biết lòng từ bi của Di Đà đích thật là quảng đại chẳng có bờ mé.

Chính cùng với Kinh Văn sau cùng một đoạn trong Tam Bối vãng sanh hoàn toàn tương ưng, Di Đà Tịnh Độ chẳng phải hoàn toàn hạn chế, nhất định phải niệm A Di Đà Phật, phải đọc Kinh Vô Lượng Thọ, phải trì Kinh Di Đà mới được vãng sanh.

Trong Kinh nói với chúng ta, kỳ thật tu học đại thừa bất cứ một pháp môn nào, chỉ cần đầy đủ tín nguyện, chí tâm hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ cả thảy đều được sanh, cho nên chẳng kể anh niệm Kinh gì?

Anh niệm Chú gì?

Hoặc giả là niệm danh hiệu của bất cứ vị Phật Bồ Tát nào?

Chỉ cần chúng ta tự mình phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ tất cả đều được sanh. Do đây có thể biết Di Đà pháp môn đích thật là vô cùng vô cùng rộng lớn.

Chúng ta xem đoạn Kinh Văn này. Ngã tác Phật thời, thập phương Phật sát, Chư Bồ Tát chúng. Văn ngã danh dĩ, giai tất đãi đắc, thanh tịnh, giải thoát, Phổ đẳng tam muội, trong Kinh Văn vừa mở đầu thì rất rõ ràng nói ra.

Đây là mười phương Phật sát Chư Bồ Tát chúng, đây là chẳng phải chúng sanh thông thường, đặc biệt là chỉ cho Chư Bồ Tát của mười phương thế giới, Bồ Tát cũng phải thiện căn, phước đức, nhân duyên đầy đủ mới có thể nghe được sáu chữ hồng danh, chúng ta trong phần giảng tập đã nói rất nhiều lần, danh hiệu công đức bất khả tư nghì.

Họ mới có thể nghe được, có thể tiếp xúc đến Kinh Vô Lượng Thọ, đầy đủ tín nguyện, tuy tự mình chẳng có phát tâm vãng sanh, Bồ Tát vẫn phải ở trong tất cả các thế giới, phổ độ chúng sanh, dùng phương pháp gì để độ?

Khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, vậy thì được. Di Đà bổn nguyện oai thần gia trì. Bổn nguyện này tức là phần sau cùng năm nguyện này, Di Đà muốn gia trì nhóm Bồ Tát này, khiến cho nhóm Bồ Tát này bất luận ở trong cảnh duyên gì.

Chữ cảnh này chúng ta nói về hoàn cảnh. Hoàn cảnh vật chất, lục đạo cũng được, tam đồ cũng được đây đều là hoàn cảnh. Còn duyên là hoàn cảnh nhân sự.

Hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh nhân sự họ đều có thể bảo trì thâm tâm thanh tịnh, không thể bị ngoại cảnh nhiễm ô, đây là nhờ A Di Đà Phật phồ hộ họ, gia trì cho họ, bởi vì Bồ Tát vẫn là hữu tình chúng sanh. 

Giải thoát, chữ giải thoát này tức là nghĩa tự tại, quyết định sẽ chẳng khởi vọng tưởng chấp trước, sẽ chẳng sanh tham sân si mạn, đây là giải thoát. Phổ đẳng là phổ biến, bình đẳng. Tâm của họ cùng tâm Phật như nhau.

Tam muội, đương nhiên là chỉ cho niệm Phật tam muội, niệm Phật tam muội là Vua trong tam muội, chẳng có chi thù thắng hơn đây. Những vị Bồ Tát khác chẳng biết, nhóm Bồ Tát này biết.

Điểm này chúng ta phải nhận thức rõ ràng, vậy thì pháp môn này thật sự mà nói là tất cả Chư Phật phổ biến, hoằng dương làm gì có Bồ Tát chẳng biết!?

Chúng ta nghe đến nhất định sẽ cảm thấy lạ lùng. Kỳ thật, những Bồ Tát không biết thì rất nhiều chính giống như Tịnh Tông này, tại thế giới hiện tại này của chúng ta cũng là phổ biến hoằng dương, có ai chẳng biết đến A Di Đà Phật, những người không niệm Phật cũng biết A Di Đà Phật, Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo cũng biết A Di Đà Phật, tuy họ biết nhưng họ chẳng tin, họ chẳng lý giải, họ cũng chẳng có nguyện tâm, như vậy thì biết cũng như là không biết.

Cho nên rất nhiều Bồ Tát là tình hình như vậy, chúng ta nói họ chẳng nghe, chẳng thấy là ý nghĩa này, đúng là con mắt thị nhi bất kiến, thỉnh nhi bất văn, họ chẳng có tín nguyện, họ chẳng có lý giải.

Đây là nói tình hình như vậy, cho nên họ thật sự hiểu rõ tín nguyện, nói một cách thật tại họ tự mình tu niệm Phật tam muội cũng cần phải khuyên tất cả chúng sanh đồng tu niệm Phật tam muội.

Chư thâm tổng trì, tổng trì tức là Phạn Ngữ chỗ gọi là Đà Ra Ni: Tổng hết cả pháp, trì hết thảy ý, như người hiện nay chúng ta chỗ nói cương lĩnh, đem cương lĩnh toàn bộ Phật Pháp nắm lấy. Nơi trong hành môn này mà nói, cũng có thể nói là thiện, tuyệt đối chẳng thể mất đi, chúng ta đều biết tu thiện, tu thiện phải có thiện hành, phải có thiện nguyện, còn phải có cơ hội cho anh tu.

Nếu chẳng có cơ hội, tuy muốn tu thiện cái thiện này tu vẫn chẳng thành, mỗi một cơ hội họ đều có thể nắm lấy, đều chẳng thể mất, điều này rất khó. Ác chẳng sanh, không những việc ác mà lời ác đều chẳng có, niệm ác cũng chẳng sanh, điều này nơi trong chư thâm tổng trì và hành môn có thể nói là cương lĩnh vô cùng quan trọng.

Trụ Tam ma địa, Tam ma địa là Phạn ngữ, trong Kinh Lăng Nghiêm nói với chúng ta Sa ma tha, Ta ma tha, Thiền na đều là danh xưng của thiền định. Vậy chỗ này tức là an trụ trong định.

Đắc thành chánh giác, chí ư thành Phật, đây đều là A Di Đà Phật oai thần gia trì, nhóm Bồ Tát này, vì nghe tên mà được lợi ích vô cùng thù thắng. Định trung thường cúng, vô lượng vô biên, nhất thiết Chư Phật, bất thất định ý.

Nhược bất nhĩ giả, bất thủ chánh giác, thứ lợi ích này chúng ta nơi phía trước thấy được, những Bồ Tát vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới người người đều đầy đủ, những Bồ Tát nghe danh mà chẳng được sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có thể có được lợi ích này chăng?

Cũng được, đương nhiên, nếu như nói là địa Thượng Bồ Tát hoặc giả là như trong Kinh nói với chúng ta về A duy việt chí Bồ Tát Thất địa trở lên những vị chẳng được Phật gia trì cũng có năng lực này, tuy nhiên những vị địa Tuyền trở xuống, chẳng có năng lực này, trí tuệ đạo đức thần thông của họ chẳng lớn như vậy. Vừa được A Di Đà Phật oai thần gia trì, năng lực này của họ hốt nhiên đề cao lên.

Giống như Thất địa, Bát địa, Cửu địa Bồ Tát như nhau. Có năng lực lớn như vậy, có thể trong một niệm phổ biến cúng dường mười phương vô lượng vô biên Chư Phật, cùng với những người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có khác biệt, được lợi ích như nhau.

Vậy có thể thấy, tâm Di Đà là bình đẳng, chẳng thể nói anh sanh đến thế giới này của tôi thì tôi gia trì, anh không đến thì tôi không đếm xỉa gì đến anh chẳng phải như vậy. Tâm của Di Đà chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước.

Cái tâm này thật sự là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, đây cũng là chúng ta cũng nên học tập, chúng ta học cách nào đây?

Trong cái xã hội hiện tại, Phật Giáo chúng ta tông phái rất nhiều, chúng tôi thường thường tiếp xúc đến, ngoài Tịnh Độ ra còn có Thiền Tông, còn có Mật Tông, trong Giáo Hạ có Tông Thiên Thai… chúng ta thường thấy người học Thiên Thai chẳng ít. 

Có người học Pháp Tướng, Pháp Tướng Duy Thức đây là chúng ta thường thấy được, người tu học pháp môn này so ra nhiều hơn một tí, vậy chúng ta đối với những bạn đồng tu này nên dùng thái độ gì?

Nên học A Di Đà Phật ư?

Chẳng thể nói là tôi tu Tịnh Độ, Tịnh Độ là đệ nhất các anh chẳng bằng tôi. Đã có phân biệt đã có chấp trước, khởi dậy cống cao ngã mạn, điều này cùng với A Di Đà Phật chẳng tương ưng.

Di Đà đối với người thì chẳng bình đẳng, kẻ khác vốn đối với chúng ta không bình đẳng chẳng có quan hệ, đó là việc của họ chúng ta nên yêu cầu chính mình, mình đối với kẻ khác phải bình đẳng, bất luận họ tu học pháp môn nào.

Chúng ta đều hoan hỷ tán thán, quyết định chẳng thể tự tán bỉ tha điều này chẳng dùng được, trong Bồ Tát giới tự tán bỉ tha, Du Già Bồ Tát giới bổn này đều liệt vào điều đệ nhất trong giới. 

Nhất định nên sanh tâm bình đẳng, bởi vì sở hữu tất cả Phật Pháp đều là Phật nói, nếu như chúng ta tự tán pháp môn này của mình, phỉ báng pháp môn kẻ khác đó tức là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng đó là sai rồi, cho nên phải giống như Phật bình đẳng mà đối xử. 

Họ đối với cái Phật Pháp thành tựu ngay trong đời này, họ tin được, giải được là cái thiện căn trong vô lượng kiếp của họ thành thục.

Sau khi họ nghe rồi họ chẳng tin, họ chẳng chịu phát nguyện, thậm chí bài xích thì chúng ta biết thiện căn của họ chưa thành thục, không thể trách họ, pháp môn này gọi là Nan Tín Chi Pháp, vậy là được rồi. 

Cho nên tâm địa chúng ta phải bảo trì thanh tịnh. Đây là định trung nan cúng Phật, cúng Phật mà chẳng mất đi ý nghĩa của định, tức là chẳng bị ngoại cảnh sở chuyển.

Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới, Chư Bồ Tát chúng, phía trước nói mười phương Phật sát Chư Bồ Tát chúng, chỗ này thì nói tha phương thế giới Chư Bồ Tát chúng ý nghĩa hoàn toàn tương đồng, điều là chỉ cho những Bồ Tát chẳng phải ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Văn ngã danh giả trong chữ văn này nhất định bao quát tín giải, bao quát hỉ lạc, ưa thích, ái hảo. Đối với A Di Đà Phật có thể sanh tâm cung kính, tâm tôn trọng. Tuy chẳng cầu vãng sanh họ có thể lấy pháp môn này tự mình tu học, lấy háp môn này giáo hoá chúng sanh nhất định được Di Đà gia trì.

Chứng ly sanh pháp hoạch Đà la ni, chữ sanh này tức là sanh tử, sanh tử có hai loại: Một loại là phân đoạn sanh tử, một loại là biến dịch sinh tử.

Phàm phu chúng ta hai loại này đều có đủ, phân đoạn là gì?

Là từng giai đoạn, từng giai đoạn, chúng ta từ lúc ban sơ nhất rõ rệt mà nhìn, giống như con người chúng ta tại nhân gian, từ sanh đến tử, đây là một giai đoạn. Sau khi chết rồi lại đi đầu thai lại sanh, sanh rồi lại tử. 

Phật bảo sanh tử bì lao chẳng có ngừng nghỉ. Sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh, lục đạo phàm phu là làm những việc này. Cho nên mắt Phật thấy được nhóm chúng sanh này là kẻ đáng thương chẳng có biện pháp đình chỉ, chẳng có biện pháp xuất ly lục đạo luân hồi, đây là nói phân đoạn.

Còn biến dịch thì sao?

Là nói biến hoá, cái này thì thật vi tế, chúng ta cũng có thể xét biết được, tỉ như nói chúng ta một năm già hơn một năm, đây tức là biến dịch.

Kỳ thật có phải một năm dài hơn một năm chăng?

Một tháng già hơn một tháng, một tuần già hơn một tuần, một ngày già hơn một ngày, tôi nghĩ điều này mọi người đều có thể đồng ý. Lại nói vi tế thêm một tí, một giây già hơn một giây, đây gọi là biến dịch sanh tử.

Anh xem! Như A La Hán trở lên, nhóm Thánh Nhân này họ phân đoạn sanh tử đã liễu rồi tức là chúng ta nói liễu sanh tử, siêu việt luân hồi rồi, phân đọan sanh tử chẳng còn nữa, tuy nhiên biến dịch sanh tử vẫn còn, biến dịch sanh tử đến bao giờ mới dứt?

Khi thành Phật thì dứt hết. Đẳng Giác Bồ Tát họ vẫn còn một phẩm thân tướng vô minh chưa phá. Họ phải phá một phẩm thân tướng vô minh đó vẫn là một lần biến dịch, đó là một lần sau cùng.

Điều này nói rõ hai loại sanh tử này hoàn toàn chẳng còn nữa, là cảnh giới trên quả địa của Như Lai, chỗ này anh xem A Di Đà Phật giúp đỡ những Bồ Tát này chứng ly sanh pháp, nói một cách cạn cợt là vĩnh pháp tam giới nói sâu hơn là hai loại sanh tử. Phật lực gia trì họ đều có thể vĩnh ly.

Hoạch Đà la ni, Đà la ni tức là Tổng Trì, tâm an trụ tại trong Tổng Trì pháp môn. Đà la ni, trong Kinh đại thừa thông thường, ý nghĩa đó thì vô cùng rộng lớn. Bởi vì nó nói về cương lĩnh, nói về nguyên tắc, trong Kinh nào thì xem nó nói đến cương lĩnh nào, nguyên tắc nào.

Vậy trong Kinh Điển Tịnh Tông, Đà la ni tức là sáu chữ hồng danh. Tha phương Thế Giới Bồ Tát nghe được danh hiệu của Phật, biết được danh hiệu công đức bất khả tư nghì thì tâm an trụ nơi trong sáu chữ hồng danh.

Vậy có lẽ có bạn đồng tu hỏi rằng: Bồ Tát niệm Phật tại sao chẳng cầu sanh?

Phía trước đã nói qua, mỗi một vị Bồ Tát, mỗi một người, nguyện lực của họ chẳng giống nhau, có số Bồ Tát nghe được rồi liền khẩn cấp cầu vãng sanh, tại sao vậy?

Vì muốn mau mau thành Phật, sau khi thành Phật mới phổ độ chúng sanh. Còn có một số Bồ Tát nguyện vọng của họ là ta chỉ muốn được Phật gia trì, ta muốn độ nhiều chúng sanh, chúng sanh thành Phật rồi ta mới thành Phật có những hạng người này.

Đây là chỉ cho loại người này, nhưng quý vị nên biết họ đích thực là Bồ Tát, họ đích thật đã ra khỏi tam giới, có bản lĩnh này, giúp đỡ chúng sanh.

Chúng ta ngày nay là đã thọ Bồ Tát giới rồi, phát cái nguyện học theo Địa Tạng Bồ Tát, chẳng thể được chẳng có bản lãnh, phiền não chưa đoạn, vẫn tiếp tục đi sanh tử luân hồi, cách này thì chẳng độ được chúng sanh, dù có nguyện này. Nguyện này có thể chẳng có kết quả, làm không nổi.

Làm không nổi thì quyết định phải vãng sanh Cực Lạc Thế Giới, nếu như tự mình có thể làm được thì kiến tư phiền não đoạn rồi, ít nhất là trình độ này, tam giới lục đạo đã chẳng thể buộc ràng anh, anh có bản lãnh này thì được.

Niệm A Di Đà Phật cầu Phật lực gia trì, anh quảng độ chúng sanh chẳng cần phải nóng lòng vãng sanh. Cho nên phía sau năm nguyện này là đối với những người này mà nói, trên thực tế chẳng phải đối với nhóm người chúng ta mà nói, chúng ta nhóm người này chẳng phải Bồ Tát.

Quý vị muôn ngàn lần xin chớ hiểu lầm thọ Bồ Tát giới rồi tức là Bồ Tát, đó chỉ là Bồ Tát bằng đất, đó là giả hữu danh vô thật, chẳng phải chân Bồ Tát, điều này phải nên biết. 

Mình đối với chính mình phải nhận thức rõ ràng, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, văn danh tín giải, nguyện tâm hoan hỷ, an trụ nơi trong bình đẳng công đức, an trụ nơi trong pháp môn bình đẳng. Quý vị nên biết, pháp môn bình đẳng tức là Kinh Vô Lượng Thọ, tức là sáu chữ hồng danh.

Bình đẳng là thể tướng của tất cả pháp, tất cả các pháp thể là bình đẳng, thể là gì?

Là pháp tánh, cho nên tướng cũng bình đẳng.

Vậy ngày nay chúng ta trong giữa cảm giác chẳng phải bình đẳng nguyên nhân này là gì?

Là chính chúng ta đã có tâm phân biệt, đã có tâm vọng tưởng, tâm này chẳng bình đẳng, vì thế cho nên nhìn cảnh giới bên ngoài cũng chẳng bình đẳng, chúng ta đem nhất chân pháp giới coi thành là thập pháp giới, việc này cũng từ trên cương lĩnh quy nạp mà nói, kỳ thật pháp giới vô lượng vô biên. Lúc này chẳng bình đẳng.

Mười phương Bồ Tát, thật tại mà nói chúng sanh căn tánh thật sự tốt cũng được, cũng có thể tu Bồ Tát hạnh, cũng có thể học Bồ Tát đạo, cũng được, cũng có thể được bình đẳng trụ này.

Vậy chúng ta đối với A Di Đà Phật, đối với Kinh Điển của Tịnh Tông hiện nay Kinh Điển của Tịnh Tông là Ngũ Kinh, Tịnh Độ Ngũ Kinh chúng ta có thể kiến tướng Văn Danh, tướng này có Tượng Phật, Kinh Điển cũng là tướng.

Thấy tướng nghe danh, được Phật gia trì đều có thể có được lợi ích của công đức thù thắng. Tâm bình đẳng, niệm bình đẳng đây là cơ sở trong tất cả sự bình đẳng. Chúng ta mới thật sự có thể được pháp bình đẳng. Trong quá trình tu học, một câu Phật hiệu này, thật tại mà nói tức là toàn thể pháp giới.

Mấy ngày trước, trong phần phía trước báo cáo với quý vị, đặc biệt là trong nguyện thứ mười tám, báo cáo cùng quý vị, Cổ đức trong tất cả Kinh, nghiên cứu so sánh, so sánh đến cuối cùng, tức là một câu Phật hiệu này, chúng ta từ trong sự giáo lược này mà thật sự thể hội đến. 

Nhận thức đến, Phật hiệu công đức bất khả tư nghì. Phật hiệu tức là tất cả pháp, tất cả pháp đều quay về danh hiệu, đến chỗ này đã thực sự bình đẳng.

Cho nên tất cả pháp môn đến cuối cùng cả thảy đều quay về một câu danh hiệu này, cái này là thù thắng không chi sánh bằng. Dụng công, điều khẩn yếu là tịnh niệm tương kế, đến lúc công phu thành tựu chỗ gọi là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm đây là được bình đẳng trụ rồi vậy. Cái tâm như vậy, hành trì như vậy là Bồ Tát hạnh chân thật.

Phía dưới nói, tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn, cụ túc đức bổn ở chỗ này đặc biệt chú trọng nơi lợi ích chúng sanh, bằng pháp môn này chúng ta toàn tâm toàn lực đi đẩy mạnh rộng ra, bởi vì hiện nay chúng ta hiểu rõ rồi, hiện nay liễu giải rồi, chỉ có pháp môn này khả dĩ cho tất cả chúng sanh trong một đời này thật sự được độ. Còn các pháp môn khác chẳng phải người bình thường có thể tu học được.

Cứ lấy Thiền Tông mà nói Lục Tổ Đại Sư trong Kinh Pháp Bảo Đài có nói, đối tượng độ của Ngài là gì?

Là người thượng thượng căn. Vậy nói một cách khác thượng và trung trở xuống chẳng có phần. Lời Ngài nói rất có đạo lý.

Vì sao Thiền chúng ta đừng nói chi đến hạng quá cao, chúng ta chỉ nói đến hạng tối thiểu, thấp nhất vẫn chưa ra khỏi tam giới, Sơ Thiền trong Sắc Giới, đây là thấp nhất trong Thiền Tông không thể thấp hơn nữa, là tối thiểu, Sơ Thiền là cảnh giới gì?

Sơ Thiền là đã lìa khỏi dục, chẳng phải Dục Giới nữa đã đến Sắc Giới, đã thoát khỏi dục rồi.

Cái dục gì vậy?

Là ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy.

Năm thứ này hết rồi trong tâm chẳng có niệm này nữa, đây mới có thể đến Sơ Thiền, chúng ta tự mình thử nghĩ chúng ta năm thứ này có thể còn động tâm chăng?

Nếu như có thể vẫn động tâm thì nói theo một cách khác anh vẫn còn ở Dục Giới, Sơ Thiền chẳng có phần. Vậy mới biết thật là khó.

Cho nên Khẩu Đầu Thiền tôi vẫn có thể giảng, tôi đã từng giảng Kinh Kim Cang, đã từng giảng Lục Tổ Đàn Kinh, còn giảng qua Vĩnh Gia Thiền Tông tập, Chứng Đạo Ca… từng giảng qua chẳng ít, Khẩu Đầu Thiền của Thiền Tông người ta hỏi tôi: Thầy biết giảng tại sao chẳng tu theo?

Tôi bèn nói thật: Tài, sắc, danh, thực, thùy, cái niệm đó tôi chưa được, đoạn không nổi. Đây là nói thật đoạn không nổi. Tôi mới biết được việc ấy quá khó.

Cho nên mới quay đầu trở lại, nghe nói chẳng cần đoạn cũng được vãng sanh. A Di Đà Phật. Tôi tức khắc quay trở lại. Pháp môn này có được cứu, có phần. Cách này chẳng cần đoạn, đới nghiệp vãng sanh. Cho nên chỉ cần đè phục là được chẳng cần đoạn có thể thấy, thiền thật sự chẳng phải dễ dàng.

Cho nên trước kia Đàm Hư lão Pháp Sư từng nói đây là vị đại đức của Tông Thiên Thai, Ngài niệm Phật vãng sanh Ngài nói: Trong đời Ngài thấy những người tu Thiền, nghe nhóm người tu Thiền này nói trong Thiền Tông đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh một người Ngài cũng chẳng nghe qua, đương nhiên càng chẳng thấy qua.

Nói tu Thiền được thiền định, có thể sinh Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền Thiên cái này Ngài thấy qua, Ngài có nghe nói qua được thiền định.

Quý vị nên biết được thiền định, được tứ thiền định, được tứ không định ra không khỏi tam giới, khi phước báo hết rồi vẫn phải đọa lạc, vậy có lợi ích gì đâu?

Chẳng phải cứu cánh. Muốn từ trong Thiền siêu việt tam giới, chẳng phải việc đơn giản. Tuyệt đối chẳng phải người thường có thể làm được. Lục Tổ Đại Sư nói đó là lời chân thật, người thượng thượng căn.

Chúng ta nơi trong Thiền Tông thấy được, Lục Tổ Đại Sư trong nhóm học trò của Ngài những người minh tâm kiến tánh kể như là nhiều nhất, những người theo học Lục Tổ Đại Sư có được bao nhiêu?

Nào phải có ngàn vạn người mà thật sự thành tựu chỉ có bốn mươi ba người mà thôi. Trong Lục Tổ Đàn Kinh chúng ta thấy được. Đây là trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc những người kiến tánh khai ngộ nhiều nhất rồi đó. 

Những Tổ Sư Đại Đức khác, dưới hội khai ngộ chỉ có một người, hai người, ba bốn người là nhiều nhất, chúng ta tự nhiên biết được chỗ khó khăn.

Còn những người của Tịnh Tông niệm Phật vãng sanh, thật tại mà nói từ xưa đến nay, những người y theo pháp môn này tu học, được vãng sanh chẳng biết là bao nhiêu. Chẳng đếm hết được. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, chuyện vãng sanh thu thập được.

Đó chỉ là nghe ngóng thôi, còn rất nhiều người vãng sanh, vãng sanh cũng chẳng thông tin cho anh, cũng chẳng có đăng quảng cáo bên ngoài, cho nên thật sự vãng sanh chúng ta chẳng biết quá nhiều, quá nhiều.

Trong truyện vãng sanh trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ghi chép đó là số ít, còn số nhiều thì chẳng biết, chẳng có nghe ngóng được, do đây thì biết được sự thù thắng của pháp môn này, Cổ đức nói: Muôn tu muôn người đi.

Ứng thời bất bạch, nhất nhị tam nhẫn, đây là nói về văn danh đắc nhẫn câu này là Di Đà gia trì đặc biệt hiện rõ. Nhất nhị tam nhẫn, cũng tức là phía sau bổn Kinh chỗ nói âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, vô sanh pháp nhẫn tức là phía sau chỗ nói ba thứ này. Tuy nhiên ba thứ này chẳng có nói rõ là Bồ Tát ở địa vị nào, không có nói.

Phật trong Kinh Nhân Vương Bát Nhã nói rất tường tận, trong Kinh Nhân Vương đem năm mươi vị Bồ Tát dùng vô nhẫn để biểu đạt, vậy thì vô sanh pháp nhẫn trong Kinh Nhân Vương là Thất địa, Bát địa, Cửu địa, Thập địa trở lên, tịch diệt nhẫn chỗ này chẳng có, chỗ này là vô sanh pháp nhẫn. 

Vậy thì chúng ta có thể khẳng định âm hưởng nhẫn là Sơ địa Bồ Tát, sơ nhị tam địa. Còn nhu thủ nhẫn là tứ ngũ lục địa, vô sanh pháp nhẫn là Thất Bát Cửu địa.

Đây là nói rõ chẳng có Đăng Địa Bồ Tát, Tam Hiền vị Bồ Tát được A Di Đà Phật uy thần vừa gia trì thì đem địa vị của họ đề thăng đến Địa Thượng Bồ Tát, câu này chủ yếu là biểu đạt cho ý nghĩa này.

Ư Chư Phật Pháp, bất năng hiện chứng, bất thối chuyển giả, bất thủ chánh giác, đây là nói rõ những vị Bồ Tát này, hiện tiền thì cùng Bồ Tát ở Cực Lạc Thế Giới như nhau, viên chứng tam bất thối. Vậy thì từ một câu này khẳng định nhất nhị tam nhẫn Bồ Tát phía trước đích thực là chỉ quả vị của Địa Thượng Bồ Tát.

Đây là Di Đà đối với mười phương Bồ Tát công đức lợi ích của sự văn danh, tín nhạo và gia trì. Đến chỗ này chúng ta đem bốn mươi tám nguyện đơn giản xin giới thiệu đến đây, ý nghĩa quá phong phú. Chúng tôi vì sự hạn chế của thời gian. Hôm nay là ngày thứ mười hai rồi, chúng tôi trong ba mươi ngày phải giảng viên mãn.

Cho nên có bạn đồng tu nói với tôi, phía sau vẫn còn dài như vậy làm sao đây?

Phần sau chúng ta sẽ giảng mau hơn. Đây là bởi thời gian hạn chế, tuy nhiên những chỗ quan trọng đều đã báo cáo ra rồi, đều nói hết rồi. Chúng ta xem phía dưới phẩm thứ bảy.
 

TẤT THÀNH CHÁNH GIÁC ĐỆ THẤT
 

Phẩm dưới đây vẫn chính là A Di Đà Phật tự mình tuyên thuyết, cũng tức là tổng kết phía sau của bốn mươi tám nguyện, lấy kệ tụng này để giải cái tâm nguyện của Ngài, để thuyết minh tâm nguyện của Ngài.

Chánh giác tức là vô thượng, chánh đẳng, chánh giác, tất thành chánh giác là gì?

Tức là nhất định thành Phật, câu này vô cùng, vô cùng quan trọng.

Chúng ta đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tương lai chứng được quả vị gì?

Nhất định thành Phật, như vậy mới khiến chúng ta thật sự nhìn ra đại nguyện này của Di Đà thật sự là cứu cánh viên mãn, phía sau có mười một bài kệ tụng.

Phật cáo A Nan: Nhĩ thời Pháp Tạng Tỳ Kheo thuyết thử nguyện dĩ.

Dĩ kệ tụng viết: Nguyện này tức là bốn mươi tám nguyện, chúng ta xem bài kệ tụng, bài thứ nhất, đây là ngũ ngôn tụng, một câu năm chữ bốn câu là một bài.

Ngã kiến siêu thế chí

Tất chí vô thượng đạo

Tư nguyện bất mãn túc

Thệ bất thành đẳng giác.

Bốn mươi tám nguyện của Di Đà chúng ta cần nên biết, mỗi một nguyện đều hàm nhiếp những nguyện khác, bốn mươi tám nguyện trong mỗi một nguyện đều bao hàm bốn mươi bảy nguyện kia, nguyện nguyện đều là viên dung vô ngại như vậy.

Chẳng phải nguyện nguyện độc lập, nguyện nguyện chẳng liên quan, chẳng phải vậy. Nguyện nguyện hỗ tương viên dung, cho nên một tức tất cả, tất cả tức là một đây là siêu thế chí đúng là siêu việt thế xuất thế gian. Nguyện của Di Đà này thật sự là siêu việt.

Tất chí vô thượng đạo, đây là quả mãn, Ngài nhất định thành Phật, chẳng những thành Phật phía trước chúng ta đã thấy được Ngài thành Phật vượt qua tất cả Chư Phật, điều này chúng tôi chẳng cần giải thích kỹ nữa, nếu anh hỏi vì sao có thể vượt qua?

Phía trước đã nói rồi. Phía sau Thế Tôn còn có dùng lối văn dài để giới thiệu, Ngài thật sự vượt qua. Cho nên Ngài là vô thượng của vô thượng.

Tất chí vô thượng đạo, tư nguyện bất mãn túc chữ tư nguyện, này là chỉ cho bốn mươi tám nguyện phía trước giảng, nguyện nguyện đều mãn túc, cũng tức là bảo nguyện nguyện đều đã biến thành sự thật, chẳng có nguyện nào là không nguyện, cho nên Ngài đã thành Phật, đây là nguyện nguyện viên mãn, là nhân duyên. Nhân duyên quả mãn, thành Phật rồi.

Thành Phật thì là quả mãn, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta A Di Đà Phật ở Tây Phương Thế Giới thành Phật đã mười kiếp rồi nhân duyên thoả mãn rồi, nguyện nguyện đều thực hiện rồi. Phía dưới những lời này đều là Đức Di Đà thuật nói về phần mình.

Sau khi Cực Lạc Thế Giới xây dựng xong, những sự tướng lợi ích chúng sanh này, trong này chúng ta phải nên học tập, phải cẩn thận để thể hội, thiết tha để học tập.

Phục vi đại thí chủ

Phổ tế chư cùng khổ

Linh bỉ chư quần sanh

Trường dạ vô ưu não.

Phật, A Di Đà Phật thật sự đã thành đại thí chủ, tài bố thí, pháp bố thí, vô uý bố thí. Những đối tượng bố thí là tận hư không biến pháp giới tất cả chúng sanh, tất cả chúng sanh là cửu pháp giới chúng sanh phía trên là Đẳng giác Bồ Tát, phía dưới là địa ngục chúng sanh Ngài bình đẳng bố thí.

Tài bố thí là gì?

Xây dựng Cực Lạc Thế Giới, hoan nghênh anh đến hưởng thụ đây là tài bố thí. Chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới quý vị phải biết Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng phải Vô Sắc Giới là có thân thể là có sắc thân.

Có thân thể là phải có chỗ để cư trú, có không gian để hoạt động có tất cả sự hưởng thụ, sự hưởng thụ viên mãn đầy đủ, tất cả tuỳ tâm sở dục cái này là A Di Đà Phật bố thí tài đối với chúng ta.

Ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, chẳng những Phật thuyết pháp, Bồ Tát thuyết pháp, đồng tham đạo hữu thuyết pháp, lục trần đều thuyết pháp, cây cũng biết thuyết pháp, chim cũng biết thuyết pháp chim đó chẳng phải là súc sanh là A Di Đà Phật biến hoá làm ra.

Nước cũng biết thuyết pháp, gió cũng biết thuyết pháp, chẳng có một thứ nào chẳng thuyết pháp, anh muốn nghe pháp gì thì họ sẽ nói pháp đó cho anh đó là pháp bố thí.

Sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì được vô lượng thọ, thân Kim Cang bất hoại, sáu thứ thần thông chẳng những thứ thứ đầy đủ, sự lớn mạnh của năng lực thần thông hầu như cùng Đẳng giác Bồ Tát như nhau là vô uý bố thí.

Cho nên Đức Di Đà đối với tất cả chúng sanh ba thứ bố thí viên mãn, là đại thí chủ sở hữu tất cả Chư Phật Như Lai chẳng thể cùng A Di Đà Phật so sánh, là đại thí chủ chân chánh.

Cách thuyết pháp này của Ngài một tí cũng chẳng khoa trương. Vị thầy mà ngày nay chúng ta mơ ước ngưỡng mộ, chúng ta muốn truy cầu vị thầy này, là một đại thí chủ.

Nếu như chúng ta có lòng tham, vẫn còn bỏn xẻn, xả chẳng được thì làm sao có thể theo Ngài được?

Điều này nghĩ lại có vấn đề, niệm Ngài cũng chẳng được vẫn phải khí phần có một tí tương ưng mới được. Vì thế nên chúng ta phải học bố thí, đương nhiên chúng ta ngày này chẳng có năng lực lớn như vậy, không thể xây dựng một cái thế giới lớn để làm vừa lòng cái dục vọng sinh hoạt vật chất của chúng sanh, chúng ta chẳng có cái đại phước báo này.

Tận tâm tận lực tức là viên mãn, cho nên nhất định phải biết. Chúng ta người niệm Phật những người muốn cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta nên đem cái phước báo của mình bố thí cùng khắp cho tất cả chúng sanh, sinh hoạt của mình nên tiết kiệm một tí, cuộc sống qua loa là được rồi, tu đại phước báo cùng A Di Đà bổn nguyện tương ưng, đây là cái bảo chứng chân chánh của chúng ta lúc vãng sanh.

Đương nhiên hiện nay cái xã hội này, ở Tân Gia Ba khu vực này khắp nơi đều giàu có, mức sinh hoạt con người đều được nâng cao, chúng ta sống với mức bình thường là được rồi đừng nên sa hoa, đừng nên phung phí thêm nữa, trong xã hội không cần thiết phải cùng người ta tranh giành thể diện cái đó gọi là tạo tội nghịêp.

Chúng ta mặc, mặc được chỉnh tề là được rồi, còn ăn thì có thể lưu tâm vệ sinh, có thể nhiếp thụ dinh dưỡng là đủ rồi, đừng nên quá đáng.

Thời thời khắc khắc nghĩ rằng chúng ta tiết kiệm được một tí thì chúng sanh có thể được lợi ích một tí, tỉ như hiện này trên tay quý vị đang cầm trên tay quyển Kinh này, quyển Kinh này một cuốn là một đồng Mỹ Kim, chúng ta bình thường tiêu tiền ta phải để dành một đồng thì thế gian này sẽ có thêm một quyển Kinh Vô Lượng Thọ.

Thì độ thêm được một chúng sanh, nếu anh giữ mãi tâm này thì phước báo của anh sẽ lớn, thì anh cùng bổn nguyện của Di Đà tương ưng, chúng ta ngày này muốn báo ơn Phật, chúng ta ngày ngày đều niệm hồi hướng thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ, ngày ngày điều niệm, mỗi ngày niệm khá nhiều lần nhưng có làm theo không?

Giả như chẳng có làm thì việc niệm này trong lòng mình tự nghĩ cũng cảm thấy áy náy, gạt mình, gạt kẻ khác lại còn gạt cả Phật Bồ Tát, vậy thì làm sao được?

Phải nên thật sự giữ cái tâm này, có cái niệm này. Trong sinh hoạt ngày thường tiết kiệm được một tí, chúng ta in Kinh Sách đây là công đức chân thật, hiện nay còn có thể làm băng cassette, băng video.

Có nhiều Đạo tràng xa xôi hẻo lánh không có Pháp Sư đến giảng Kinh thuyết pháp, chúng ta đem số băng cassette, băng video này cúng dường cho họ, họ sẽ được lợi ích rất lớn, trong những năm gần đây tôi được biết có rất nhiều người, nhờ vậy mà nghe được danh hiệu Di Đà, nhờ vậy mà biết được Kinh Vô Lượng Thọ, phát nguyện niệm Phật vãng sanh rất nhiều.

Chúng tôi chẳng đi nhưng họ từ trên băng cassette đã học được, từ trên Kinh bản đã học được, cho nên đây có thể biết cách này đích thực đã khởi lên tác dụng quá lớn. 

Đây là chúng ta thật sự báo ân, thật sự giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn này khiến họ trong một đời này được sanh về Phật Quốc, đó mới thật sự là hạ tế tam đồ khổ. Phía dưới chỗ nói những phương pháp này, chúng ta đều có thể noi theo.

Phổ tế chư cùng khổ đây là tỉ dụ. Mê hoặc, vô tri tức là cùng, tức là khổ. Chữ cùng là nghèo này chẳng phải chỉ cho tiền của, chúng ta ngày nay nói đến chữ cùng, đại khái tức là chẳng có tiền của, trong Phật Pháp không chỉ là chỉ cho cái này.

Không có trí tuệ là cùng, không có đạo đức là cùng, không có thiện hạnh là cùng đấy, điều bình thường chúng ta chẳng có nghĩ đến, cho nên đây là mức độ thấp nhất chúng ta nên biết.

Con người chẳng có trí tuệ thì chẳng có phương pháp liễu sinh tử xuất tam giới, chẳng có phương pháp đoạn phiền não, chẳng có phương pháp đoạn vọng tưởng. Ở tại thế gian này sống trong kiếp số dài lâu chẳng nơi nương tựa đây là thật sự cùng khổ.

Niệm Phật, thật tại mà nói chúng ta ngày nay là thật sự tìm được nơi nương tựa, chúng ta nương nhờ A Di Đà Phật, chúng ta nương nhờ Kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta nương nhờ Quán Âm, Thế Chí đây là Tam Bảo của Tịnh Tông chúng ta.

Tôi giảng Tam quy y với quý vị, giảng đến cuối cùng thì tôi thực hiện tại Tam Bảo này, chúng ta quy y Phật quy y A Di Đà Phật. Quy y Pháp quy y Kinh Vô Lượng Thọ. Quy y Tăng là quy y nơi Quán Âm, Thế Chí. Tôi cũng nghe một số người nói Tịnh Không Pháp Sư có thiện kiến.

Vẫn còn may mà ở Đại Lục vẫn còn một số vị đại Pháp Sư biện hộ giùm cho tôi: Tịnh Không Pháp Sư nói đó không sai, chẳng sai còn có mấy vị lão Pháp Sư này ủng hộ tôi rất an ủi. Thật sự nương tựa.

Nương tựa Phật và pháp thì chẳng có vấn đề, điều này mọi người có thể biết, tuy nhiên Quán Âm Thế Chí thì nương tựa cách nào?

Phải biết được Quán Âm là lòng từ bi. Chúng ta đối với tất cả người, tất cả chúng sanh có thể sanh từ bi tâm tức là Quán Âm, từ bi tức là Quán Âm. Trí tuệ là Thế Chí, chúng ta sử xự đối người tiếp vật phải dùng lý trí, đừng dùng cảm tình, cảm tình là mê, lý trí tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Cho nên đây là nơi nương tựa của chúng ta.

Chúng ta phải nương nơi lý tánh, phải nương nơi từ bi: Đây là quy y Tăng, đây là nơi quy y chân chánh, chẳng phải quy y người nào đó… điều này phải nên biết. Nương tựa, không có nương tựa là khổ, chúng ta có nương tựa giống như đứa trẻ có cha mẹ nương tựa, không có cha mẹ là cô nhi, rất đáng thương. 

Hãy thử xem số chúng sanh, chẳng có nơi nương tựa quá nhiều, quá nhiều. Nghĩ lại mình đây thật may mắn. Xuất sanh chúng thiện căn, câu này là nói trí tuệ công đức. Chẳng có trí tuệ thì chẳng thể sanh thiện căn.

Thiện căn, trong Phật Pháp có hai cách nói: Một là thiện căn của thế gian, chỗ có tất cả thiện pháp của thế gian từ cái gốc này mà sanh ra đây gọi là thiện căn, thiện căn này là gì?

Không tham không sân không si, là tam thiện căn, ba cái thiện căn này là từ trong trí tuệ chân thật sinh ra. Người chẳng có trí tuệ chân chính đều có tham sân si, có tham sân si.

Tham sân si gọi là tam độc phiền não, nói một cách khác tội ác vô lượng vô biên của thế gian đều từ chỗ này sanh ra, từ tham sân si sanh ra, ngược lại với cái này là tam thiện căn, thiện căn của xuất thế gian chỉ có một tinh tiến, tinh tiến không giải đãi thì đạo nghiệp rất dễ thành tựu, tuy nhiên phải nên chú ý hai chữ tinh tiến, tiến là tiến bộ, không thoái chuyển, tinh là thuần mà không tạp một môn thâm nhập vậy thì là đúng.

Cho nên chúng ta thấy trong hàng Cổ đức khi họ chưa biết được Tịnh Độ, những thứ họ học vô cùng quảng bát, đến một ngày nào đó họ gặp được pháp môn này thật sự thấu hiểu, lý giải rồi họ nhất định buông hết tất cả một môn thâm nhập.

Thời xưa có hai vị Đàm Loan, Đạo Trước là gương mẫu của chúng ta Đạo Trước Đại Sư một đời chuyên giảng Kinh Di Đà việc này trong lịch sử vẫn còn ghi Ngài thuyết Kinh Di Đà cũng có thể bao quát luôn Kinh Vô Lượng Thọ bởi vì Ngài lúc bấy giờ là vào thời Đại Nam Bắc Triều, vào thời đó Kinh Vô Lượng Thọ cũng gọi là Kinh A Di Đà.

Cho nên về sau Ngài Liên Trì Đại Sư giảng đại bản, tiểu bản chuyên giảng, một đời Ngài giảng, giảng hơn hai trăm lần Ngài chẳng giảng Kinh khác đây gọi là tinh tiến.

Cuối Triều Nhà Minh, Ngài Liên Trì Đại Sư cũng nói rất hay Liên Trì Đại Sư thông Tông thông Giáo, lúc tuổi về chiều chuyên Tu Tịnh Độ, tất cả thảy đều buông xuống: 

Tam Tạng thập nhị bộ nhường cho kẻ khác ngộ, tám vạn bốn ngàn hạnh nhường cho kẻ khác hành, Ngài chỉ một quyển Kinh A Di Đà một câu sáu chữ hồng danh, tinh tiến đây thì gọi là tinh tiến, đây đều là gương mẫu của chúng ta, là mô phạm của chúng ta. Xuất sanh chúng thiện căn vô lượng vô biên thiện pháp từ chỗ này sanh ra.

Thành tựu bồ đề quả, bồ đề quả, tức là chứng đắc Phật Quả viên mãn. Vậy chúng ta thấy được chỗ này thì chúng ta biết được vị đại thí chủ A Di Đà Phật này bố thí, những người được lợi ích đến chỗ này được đó là cái lợi ích cứu cánh viên mãn. Đây chẳng phải sự bố thí thông thường, là giúp cho chúng sanh thành Phật.

Trong tất cả các loại bố thí đây là cách bố thí chí cao vô thượng, điều này chúng ta cần phải học. Chúng ta ngày nay học là đem pháp môn Tịnh Độ tự mình hết lòng tu học có được sự lợi ích thù thắng, có trách nhiệm, có nghĩa vụ để đẩy mạnh rộng ra, những người chỉ cần quen biết với chúng ta thì chúng ta nên đem pháp môn này giới thiệu cho họ, tiến cữ cho họ.

Chúng ta tự mình không làm nổi thì Kinh Điển ở đây, chú giải ở đây, chỉ cần chúng ta có lòng, niệm niệm đều đem Kinh bản Phật hiệu gián tiếp lưu thông qua lại thì phù hợp với bổn nguyện của Di Đà.

Chúng tôi bên ngoài nơi giảng tập có nhiều Kinh Sách đang được biếu tặng để kết duyên, không chỉ là nói bằng miệng mà thật có bằng hành động để hỗ trợ, hy vọng mọi người lúc kết duyên lấy cho nhiều.

Tôi chỉ cần lấy một quyển nếu lấy một quyển thì tâm lượng anh quá nhỏ, lẽ nào anh chẳng quen được một người nào hay sao?

Những người anh quen đó anh đều có nghĩa vụ phải tặng cho họ. Kinh Sách đó lấy hết không sao, lấy hết chúng tôi lại in nữa, cuồn cuộn không dứt để bổ sung vào. Cho nên quý vị cũng đừng khách sáo tôi lấy nhiều quá khó coi lắm.

Tâm lý này không nên, phải nên lưu thông đại pháp, khiến cho chúng sanh đều có được lợi ích của công đức thù thắng, cho nên mới có thể cùng Phật tương ưng. Xin xem tiếp phần Kinh Văn phía dưới.

Ngã nhược thành chánh giác

Lập danh Vô Lượng Thọ

Chúng sanh văn thử pháp

Cụ lai ngã sát trung.

Bốn câu này thật tại mà nói là trung tâm đại nguyện của A Di Đà Phật, bốn mươi tám nguyện là sự triển khai của bốn câu này. Bốn câu này, thật tại mà nói là toàn thể của Di Đà đại nguyện.

Anh thử xem! Cái mùi vị này ngã nhược thành chánh giác, chữ ngã là Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo tự xưng. Hiện nay Ngài thành Phật rồi gọi là A Di Đà Phật, tức là A Di Đà Phật.

Vậy trước tiên lập danh Vô Lượng Thọ, Ta thành Phật danh hiệu ta là gì?

Là Vô Lượng Thọ Phật, tiếng Phạn gọi là A Di Đà Phật. Chúng ta đem nó dịch thành ý nghĩa, dịch thành tiếng Trung Hoa là Vô Lượng Thọ Phật. Trong tất cả công đức, thọ mạng là đệ nhất đức trước chánh danh, danh bất chánh thì ngôn bất thuận, cái danh hiệu này thật tại mà nói rất có sức nhiếp thọ.

danh từ trong Phật Pháp, nếu là thế gian pháp mà nói rất có sức dụ hoặc anh thử xem có người nào mà chẳng muốn trường thọ?

Cho nên chữ Vô Lượng Thọ này rất có năng lực dụ hoặc, lôi cuốn. Tôi ở Mỹ xây dựng Đạo tràng, sau khi Đạo tràng chúng tôi xây dựng xong, Đạo tràng chúng tôi ngày đầu mở cửa, lấy tiệc trà để chiêu đãi láng giềng của chúng tôi, nhóm người ngoại quốc này đến Đạo tràng chúng tôi cũng vô cùng hoan hỷ, tuy họ là tín đồ Cơ Đốc Giáo, tín đồ Thiên Chúa Giáo đến Đạo tràng chúng tôi họ cũng rất hoan hỷ.

Bởi vì Đạo tràng của chúng tôi hình thức xây dựng chẳng phải Chùa của Trung Quốc là kiến trúc theo kiểu Mỹ, đến lúc tập hợp, tôi đơn giản đưa ý nghĩa mục tiêu xây dựng Đạo tràng của chúng tôi, giới thiệu cho họ khiến họ đối với chúng tôi, có được một tí nhận thức và liễu giải, họ cũng vô cùng vui mừng.

Khi họ trông thấy chúng tôi cúng dường những Tượng Phật, chúng tôi cúng dường Tây Phương Tam Thánh, họ hỏi chúng tôi cúng dường đó là Phật gì?

Họ hỏi tôi: Tu pháp môn gì?

Bởi vì ở Mỹ, người Mỹ biết trong Phật Giáo có Thiền, có Mật… pháp môn này ở Mỹ rất thịnh hành.

Họ hỏi tôi học pháp môn gì?

Tôi bèn nói với đồng tu phiên dịch, tôi nói: Anh đừng nói với họ là Tịnh Độ, họ không biết. Anh càng nói càng rắc rối, chúng ta phải tốn rất nhiều lời lẽ để tranh luận vẫn chẳng rõ ràng.

Tôi nói: Anh cứ nói với họ chúng ta học pháp môn này gọi là pháp môn A Di Đà Phật. Anh bèn phiên dịch lại như vậy.

Họ hỏi A Di Đà Phật là nghĩa gì?

A Di Đà Phật có ba nghĩa: Thứ nhất là trường thọ. Họ nói họ cần họ muốn trường thọ. Thứ hai là vui vẻ. Họ nói cái này họ cũng cần. Thứ ba là trí tuệ. Họ nói cái này họ cũng cần.

Được rồi! Hy vọng về sau mỗi thứ bảy đến với tôi nơi đây, nơi đây có trường thọ, có vui vẻ, có trí tuệ họ bèn đến.

Bởi vì chủ nhật họ phải đến nhà thờ, thứ bảy có thể đến Phật đường, cùng với nhà thờ của họ chẳng xung đột. Như vậy là đem người ngoại quốc tiếp dẫn trở lại. Cho nên vừa đơn giản, vừa rõ ràng. Cho họ cái quan niệm vô cùng rõ ràng. Chúng tôi tại địa phương này học đó là trường thọ, vui vẻ, trí tuệ.

Lập danh Vô Lượng Thọ rất quan trọng, phải không?

Vô cùng quan trọng. Họ là Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo đồ họ cần trường thọ. Chúng sanh văn thử hiệu trong văn bao quát tín, bao quát hoan hỷ, có tín nhạo thì họ mới phát nguyện tu học. Cụ lai ngã sát trung tất cả đều đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Thí Chủ A Di Đà Phật hoan nghênh cùng khắp.

Quả thật là Đại Hội Vô Trạch. Đại hội bình đẳng. Chẳng có tuyển chọn. Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba mời tôi đến giảng bộ bình đẳng Kinh này cũng là có cảm ứng. Tôi thấy ở Cư Sĩ Lâm bữa ăn sáng, ăn tối, ăn trưa cũng là bình đẳng bố thí, điểm này chẳng dễ.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi: Một năm ba trăm năm mươi lăm ngày chỉ có một ngày không cúng dường đó là mồng một tết, trừ ngày ra, ngày ngày ba bữa đều cúng dường cả. Điều này chẳng phải dễ. Bình đẳng bố thí với bình đẳng giác tha thì là tương ưng.

Như Phật kim sắc thân. Diệu tướng tất viên mãn. Đây là nói mỗi một người vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cùng thân tướng của Phật hoàn toàn tương đồng, cùng thân tướng của A Di Đà Phật hoàn toàn tương đồng.

Thân tướng: Thân được diệu tướng trang nghiêm. Chúng ta nói ba mươi hai tướng tám mươi chủng hảo, người người đều đầy đủ.

Diệc dĩ đại bi tâm

Lợi ích chư quần phẩm.

Số người vãng sanh này cũng giống như Phật, Phật đại từ đại bi mỗi một người đi vãng sanh tâm nguyện, tâm hành đều giống như Phật, điểm này vô cùng vô cùng quan trọng.

Cho nên chúng ta phải từ trong Kinh Điển hết lòng để thể hội, để học tập, chúng ta phải học đại bi tâm, đại bi chữ đại này tức là bình đẳng, nếu như có lựa chọn phân biệt thì từ bi đó gọi là từ bi, không phải là đại từ bi. Đại từ bi là chẳng có phân biệt chẳng có chấp trước, với tâm bình đẳng để hành từ bi thì gọi là đại từ đại bi.

Chúng sanh cũng có từ bi, cái từ bi này tức là người thế gian chúng ta gọi là ái tâm, nhà Phật đem danh từ này đổi lại là từ bi, tức là ái tâm, tại sao chẳng dùng ái tâm?

Chữ ái này thật tại mà nói nó đã hại chết rất nhiều, rất nhiều chúng sanh.

Vì sao vậy?

Vì là tình chấp, là tình ái rất sâu của cảm tình, trong Kinh thường nói ái bất trọng, bất sanh Ta Bà nói một cách khác, nếu anh chẳng có ái tâm sâu nặng thì anh chẳng đọa lục đạo luân hồi.

Lục đạo luân hồi làm sao mà có?

Là từ cái ái mà có, anh bảo việc này có tệ hại không chứ. Người thế gian ngày ngày cũng chẳng lìa khỏi cái ái, vẫn rất thích cái ái, vậy thì đọa luân hồi, cho nên Phật Pháp đem nó đổi thành từ bi, thật tại mà nói cái ái của người thế gian là cảm tình, còn cái ái trong Phật Pháp nói đến là lý tánh, chẳng phải cảm tình, họ đem nó đổi lại danh từ, gọi là từ bi. Thật tại mà nói từ bi là chân ái, còn cái ái của người thế gian đó là giả ái tình ý hư giả.

Anh xem! Nam nữ yêu nhau say đắm, rồi kết hôn có hai ngày lại ly hôn, ra tòa. Đó là giả ấy mà. Nào phải thật, là giả. Không tin cậy được.

Cho nên từ bi mới tin cậy được là lý tánh, không phải cảm tình, chẳng thể thay đổi. Tình cảm của người thế gian có thể thay đổi thiên biến vạn hóa, chẳng tin được. Chúng ta những người học Phật, đầu óc so sánh ra bình tĩnh hơn một tí. Anh bảo anh thích tôi, yêu tôi... gật đầu một cái.

Nhưng tôi chẳng tin anh, vì sao thế?

Vì biết đó là giả, tình ý hư dối. Cho nên trăm ngàn lần đừng cho là thật, nếu anh cho là thật thì anh sẽ thiệt thòi, anh bị lừa. Ngay chính bản thân họ họ cũng không biết.

Cái tâm đó của họ hôm nay yêu thích, ngày mai thì chán bỏ, họ chẳng biết chính mình đối với mình cũng chẳng nắm rõ, cho nên họ lừa dối kẻ khác cũng chẳng trách họ, họ ngay chính mình cũng lừa dối luôn.

Cho nên từ bi là chân ái vĩnh viễn chẳng thể đổi thay, Phật Bồ Tát tin cậy được, người thế gian không tin cậy được. Cho nên chúng ta phải học Phật.

Lợi ích chư cùng phẩm, giống Phật chẳng khác. Niệm niệm phải lợi ích chúng sanh, phải giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ, giúp đỡ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi tỉnh ngộ trở lại, điều này quan trọng. Thường có cái tâm này, có ý niệm này đây là tâm đức.

Ly dục thâm chánh niệm

Tịnh huệ tu phạm hạnh.

Hai câu này là dạy chúng ta trong sinh hoạt ngày thường, xử sự đối người tiếp vật phải làm cách nào!?

Mười chữ này là cương lĩnh. Phải ly dục, dục là dục vọng, dục vọng chẳng có cùng tận, trong dục vọng bao gồm quá nhiều, quá nhiều.

Phật đem nó qui thành năm đại loại: Tài là tài vật tất cả phương diện vật chất bao gồm cả tiền tài. Sắc là chỉ cho tình ái nam nữ, chỉ cho cái này.

Danh bên trong gồm địa vị bao gồm quyền lợi, bao gồm những thứ này điều mà người thế gian hết mình để đi tranh thủ.

Thực là ẩm thực, rất nhiều người đối với ẩm thực vô cùng để tâm nghiên cứu, chỉ vì chính mình là vì cái lưỡi ba tấc này, sau khi nuốt xuống bụng rồi thi mùi vị gì cũng chẳng biết nữa, có cả trăm cách để nghiên cứu khẩu vị sắc hương vị tức là vì cái lưỡi ba tấc, vì cái lưỡi ba tấc mà tạo không biết bao nhiêu tội nghiệp, không đáng tí nào, điều phải nên giác ngộ.

Thùy là ngủ nghỉ tài, sắc, danh, thực, thùy là năm cái gốc của địa ngục, đó tức là tạo tội nghiệp phải nên giác ngộ, phải nên ly dục.

Ly dục tức là tịnh, Phật vì chúng ta chế định rất nhiều giới luật, tinh thần của giới luật tức là ly dục, khiến chúng ta khôi phục lại thanh tịnh tâm, tâm thanh tịnh rồi tức là hành của chúng ta thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh.

Chánh niệm, chánh niệm là định phải sanh chánh niệm, nói một cách khác tâm chúng ta chẳng những phải có định, phải có thâm định như trong Kinh Lăng Nghiêm nói đến Thủ Lăng Nghiêm Đại Định chúng ta niệm Phật thì tâm định, trong A Di Đà Phật sáu chữ hồng danh, so với tu Lăng Nghiêm Đại Định tiện lợi hơn nhiều, mà quả báo thật tại mà nói vượt hơn hẳn Lăng Nghiêm Đại Định, đây thật sự bất khả tư nghì. Vậy thì có định đương nhiên là có tuệ vậy.

Cái định tâm này khởi tác dụng đó là tuệ. Tịnh tuệ tu vạn hạnh, hạnh là hành vi biểu hiện trong sinh hoạt ngày thường, biểu hiện nơi xử sự, đối người tiếp vật. Vạn hạnh thanh tịnh tâm hai câu này là hành đức, chúng ta qui nạp cái tổng cương lĩnh này.

Còn phương diện tự lợi thì sao?

Tức là phải tu giới định huệ. Lúc giúp đỡ kẻ khác tự lợi lợi tha, giúp đỡ kẻ khác ly dục, điểm này vô cùng, vô cùng quan trọng.

Cái xã hội này hiện nay, điện ảnh, báo chí, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình đều là ở trong năm thứ dục này, dùng các thứ phương pháp để dụ hoặc anh, chỉ sợ dục vọng này của anh chẳng mãnh liệt, dùng phương pháp này tăng cường dục vọng của anh, nói một cách khác gia tốc mức độ lục đạo luân hồi của anh, gia tốc anh mau đọa tam đồ ác đạo, đấy đúng là ma vậy. Mỗi người trong nhà có ma chưởng, anh nhảy chẳng ra khỏi ma chưởng.

Cái gì là ma chưởng?

Máy truyền hình là ma chưởng, anh chẳng biết thứ này là đáng sợ. Trẻ con trong gia đình anh suốt ngày xem cái đó, ghê gớm lắm. Mai sau hậu họa khôn cùng. Đây đích thực là mối âu lo của cả xã hội. Con người minh bạch hiểu rõ vô cùng đáng sợ.

Còn báo chí?

Cho nên chúng ta thật tại mà nói, tôi đi qua Đại Lục mấy lần tôi rất thưởng thức Trung Quốc Đại Lục, báo chí chỉ có hai trang chẳng có ô nhiễm, chỉ báo cáo tin tức, chẳng có những thứ ô nhiễm từ tài sắc danh thực thùy. Chương trình truyền hình xem ra cũng rất sạch sẽ, đây là hiện tượng tốt. Cho nên nhân tâm so ra thanh tịnh hơn.

Ở vùng duyên hải, quý vị thường thường đi tham quan du lịch cảm thấy người ở Đại Lục này hình như người lòng tham rất nặng, đó là vì họ sống những ngày cùng khổ đã lâu rồi, nhìn thấy nơi vật chất phong phú, tâm tham của họ dẫn khởi, bản thân họ trước kia chẳng có, thời đại về trước họ đúng là đêm chẳng cần đóng cửa.

Hiện nay tại sao tăng trưởng tâm tham?

Là chúng ta những người này đem họ dẫn phát ra. Tôi cảm thấy chẳng phải lỗi của họ, là lỗi của chúng ta. Cho nên quý vị nghĩ lại xem, bất cứ anh từ phương diện nào để quan sát, thấy có đạo lý.

Chánh phủ Tân Gia Ba là một chánh phủ rất có trách nhiệm, quản chế rất là nghiêm khắc, thứ ô nhiễm này so với Mỹ, so với Đài Loan còn nhẹ hơn rất nhiều, ô nhiễm của Mỹ thật là ghê gớm lắm. Truyền hình suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không gián đoạn, đài truyền hình thì có mấy mươi cái, rất nhiều đài không thể xem được.

Cho nên trước kia ông Phương Đông Mỹ nói: Nước Mỹ tương lai nếu mất nước cái nhân tố thứ nhất chính là truyền hình, truyền hình la ma chưởng, chúng ta phải lưu ý cẩn thận. Đối với con em chúng ta lúc xem truyền hình, phải hạn chế thời gian, chọn tiết mục cho chúng, không thể tùy tiện để chúng xem, đối với thâm tâm của chúng nó có phương hại.

Sự ly dục này từ nhỏ là phải trông nom, phải chiếu cố, chánh niệm hoặc định tuệ này cùng vô lậu học tương ưng, cho nên trong sinh hoạt đời thường xử sự, đối người tiếp vật phải giữ cái tâm này. Phải thời thời khắc khắc hết lòng đi giúp đỡ người. Đây là đại dụng của đức tướng của A Di Đà Phật, điều này cũng cả thảy thực hiện rồi.

Tiêu trừ tam cấu minh

Minh tế chúng ách nạn.

Tam cấu tức là tam đồ. Cấu tức là ô nhiễm, tức là chỉ cho tham sân si, minh tức là vô minh, tức là mê hoặc điên đảo. Câu này thông thường chúng ta gọi là tiêu nghiệp.

Phật Quang phổ chiếu sát độ, tiêu trừ tất cả tội chướng của chúng sanh, Phật Quang chúng ta chưa thấy được, tuy nhiên quý vị nên biết nơi chốn có Kinh Điển của Phật tức là nơi Phật Quang chiếu sáng ngời.

Anh chịu đọc tụng, chịu đi cầu giải thì anh được lợi ích, thì anh sẽ biết ta phải nên sống cách nào?

Ta nên làm người cách nào?

Ta nên xử sự ra sao?

Nhờ ánh sáng của Phật gia trì.

Ánh sáng này tức là trí tuệ, quyển Kinh này mỗi một chữ đều là Phật Quang, mỗi một chữ đều là trí tuệ của tự tánh, đọc rồi sao có thể chẳng khai ngộ chứ?

Sao có thể chẳng tiêu nghiệp chướng chứ?

Nhưng thật tại mà nói cũng có một số người niệm rồi nghiệp chướng không thể tiêu trừ, họ niệm cách nào vậy?

Là vì để cầu ngũ dục lục trần mà niệm Kinh, cầu Phật Bồ Tát chẳng cầu cái khác, họ chẳng cầu giới định huệ, họ cầu tham sân si.

Anh bảo! Có tệ hại không chứ?

Mỗi ngày niệm vài biến Kinh, niệm vài tiếng Phật hiệu cho Phật Bồ Tát nghe cầu Phật Bồ Tát bảo hộ họ thăng quan phát tài, tài phát càng nhiều càng tốt, tham mà không chán.

Đọc Kinh cách đó thì Phật Quang chẳng chiếu đến anh, cách đọc Kinh này vô dụng. Phật sẽ chẳng giúp anh để tạo tội nghiệp, Phật chẳng thể tăng trưởng tâm tham của anh, chẳng có đạo lý này.

Làm gì có hạng Phật Bồ Tát như vậy?

Cho nên đọc Kinh phải minh lý, biết đoạn dục sanh chánh niệm, tịnh tuệ tu vạn hạnh. Như vậy mới có thể tiêu trừ tam cấu minh, minh tế chúng ách nạn, minh tức là trí tuệ, duy chỉ có trí tuệ khai mở rồi, thật sự giác ngộ rồi, tâm ý thanh tịnh thì sở hữu, tai nạn sẽ tự nhiên miễn trừ hết vậy.

Tất xã tam đồ khổ. Đây là nói về quả báo, khổ báo đã lìa khổ rồi diệt chư phiền não ám. Phía trước có hai chữ tiêu trừ, chỗ này thì là diệt, công phu càng sâu hơn. Tiêu, chẳng phải là diệt, ý nghĩa của chữ diệt so với chữ tiêu sâu hơn, đây là nhờ Phật lực gia hộ, diệt nghiệp rồi so với chữ tiêu nghiệp công đức lại càng thù thắng.

Khai bỉ trí huệ nhãn

Hoạch đắc quang minh thân.

Câu khai bỉ trí tuệ nhãn tức là bình thường chúng ta thường gọi là khai ngộ rồi hoạch đắc quang minh thân, tức là trong Thiền Tông gọi là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, đây là thân nghiệp thanh tịnh chân thật. Từ phía trước chúng ta xem thẳng xuống dưới thân khẩu ý tam nghiệp thanh tịnh.

Bế tắc chư ác đạo: Bế tắc, là tỉ dụ. Bởi vì chẳng những ác nghiệp chẳng tạo, ác niệm cũng chẳng có. Nhân, cái ác nhân chẳng có thì đương nhiên cái quả báo của ác cũng chẳng có. Thế xuất thế pháp đều lìa không khỏi nhân quả nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai trong toàn bộ Phật Pháp cũng chẳng lìa khỏi nhân duyên, quả báo.

Cho nên thiện nhân nhất định được thiện quả, ác nhân nhất định có ác báo, đây là cái nhân ác hoàn toàn chẳng còn nữa, ác báo chẳng còn nữa. Thiện nhân thành thục đây là được vui, lìa khổ được vui rồi.

Thông đạt thiện thú môn: Thiện thú là phương pháp nhập môn của thiện đạo, phương pháp nhập môn của thiện đạo là gì?

Là thiện nhân.

Cái gì là thiện nhân?

Là thiện nhân chân chánh.

Cái gì là thiện nhân cứu cánh?

Nếu anh hoàn toàn đều hiểu rõ rồi, anh hoàn toàn thông đạt rồi thì đương nhiên anh chịu tu thiện, tự nhiên đoạn ác vậy.

Vị chúng khai Pháp Tạng: Chúng là chúng sanh, tự mình được lợi ích thì nhất định sẽ giúp đỡ kẻ khác. Chủ động đi giúp đỡ người, niệm niệm chẳng xả mà đi giúp đỡ kẻ khác. Pháp Tạng ý nghĩa thông thường là nói pháp tánh, hàm chứa vô lượng công đức, cái này chúng ta gọi là Pháp Tạng.

Ở chỗ này là chỉ cho quyển Kinh Vô Lượng Thọ này, quyển Kinh Vô Lượng Thọ này là Vô Thượng Pháp Tạng, viên mãn Pháp Tạng, bí mật Pháp Tạng, vị chúng khai Pháp Tạng vì tất cả chúng sanh giới thiệu, tiến cử, thuyết minh khiến cho họ liễu giải, hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Quảng thí công đức bảo. Muốn giống như Di Đà học đại bố thí, tài pháp vô úy, thì lấy pháp môn này của Phật vậy là đã chu toàn, đã viên mãn rồi, đây có thể thật sự giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ. 

Giúp đỡ tất cả chúng sanh hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh vũ trụ tức là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, nhân sanh tức là chính mình thật tại mà nói, thật sự giúp đỡ người biết rõ chính mình cùng với trạng huấn chân thật của hoàn cảnh sinh hoạt của mình.

Vậy nếu theo Tịnh Tông mà nói cũng có thể nói giúp đỡ người phát bồ đề tâm, giúp đỡ người nhất tâm niệm Phật đây là thí công đức bảo.

Như Phật vô ngại trí. Mấy câu sau đây hi vọng mọi thứ đều có thể có được khí phần của Phật cùng Phật tương ưng, cũng tức là tục ngữ chúng ta nói phải được sự bảo hộ gia trì của Phật, câu này hy vọng trí tuệ cùng Phật tương ưng, như Phật vô ngại trí.

Sở hành từ mẫn hạnh. Chỗ này chúng ta phải chú ý, trí tuệ là đệ nhất rồi, chẳng có trí tuệ phần dưới làm không nỗi. Khuyên họ khuyến khích họ đều là vô dụng.

Nhất định phải khai trí tuệ, nói một cách khác nhất định phải khiến họ hiểu rõ chân tướng sự thật, nhiên hậu bất luận họ làm cách nào đều là chính xác cả, đều là chẳng thể sai, đều có thể hướng về sự lợi ích chân thật, tức là vãng sanh bất thối thành Phật.

Đây là lợi ích chân thật. Cho nên họ có thể giống như Phật đại từ đại bi, từ mẫn hành, lòng từ bi này đồng với Phật đối với tất cả chúng sanh, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, lấy tâm bình đẳng để giúp đỡ tất cả đại chúng thường tác Thiên Nhân Sư đắc vi tam giới hùng.

Phía trước đã từng báo cáo qua với quý vị, trong Phật Môn xưng hô Đại Sư là cách tôn xưng đối với Phật, chỉ có Phật mới được xưng Đại Sư. Đẳng Giác Bồ Tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền đều xưng là Đại Sĩ, chẳng có xưng Đại Sư.

Mà hiện nay, hiện nay thế giới dân chủ tự do cởi mở rồi dù anh xưng hô cách nào cũng chẳng phạm pháp, cũng chẳng có ai điếm xỉa đến anh, cho nên đồ đệ đối với Sư Phụ cung kính đều xưng Đại Sư.

Còn người làm Sư Phụ cũng chẳng nói rõ, cũng nhận đại. Như vậy điều này có phần quá đáng. Thật tại mà nói là không thể được, từ xưa đến nay chưa có hiện tượng như vậy, hiện nay là thời loạn, hiện tượng quái gở này mọc lên như nấm.

Chúng ta rõ lý nên biết. Tuy nhiên vào thời xưa duy nhất chỉ có một ngoại lệ là Tổ Sư của Tịnh Độ Tông xưng là Đại Sư cùng Phật như nhau chúng ta nghĩ lại vẫn có tí đạo lý. Bởi vì Phật độ chúng sanh, khiến chúng sanh một đời viên thành Phật đạo đây là Thiên Nhân Sư, Đại Sư.

Bồ Tát trở xuống, Tổ Sư Đại Đức tuy là độ chúng sanh trong một đời chẳng thể thành Phật cũng chẳng thể bảo đảm họ bất thối, chẳng có sức mạnh lớn lao như vậy, duy chỉ có Tổ Sư của Tịnh Độ Tông hoàn toàn dùng câu A Di Đà Phật để khuyến đạo tất cả chúng sanh, cùng Phật độ hóa chúng sanh thành Phật đạo không hai không khác.

Cho nên người đời sau tôn xưng Tổ Sư Tịnh Tông là Đại Sư, chỉ có một ngoại lệ như vậy. Như chúng ta ngày nay xưng Ấn Quang Đại Sư bởi vì Ngài là Tổ Sư của Tịnh Độ Tông, cái này thì có thể xưng. Đây là một vài Phật Học thường thức chúng ta cần nên biết đến.

Thường tác Thiên Nhân Sư

Đắc vi tam giới hùng.

Đây là nói hành, giáo hóa đồng phật, đức đồng phật. Thuyết pháp Sư Tử Hống, Sư tử là tỉ dụ. Sư tử vừa mới rống lên, vừa mới kêu lên thì bầy thú rừng nho nhỏ nghe sư tử kêu chân đều trở nên mềm nhũn, chạy cũng chẳng nổi.

Đây là tỉ dụ Phật nói Pháp tất cả tà môn ngoại đạo sau khi nghe được có nghĩa trong tâm đều cảm thấy khủng bố sợ sệt, đây là tỉ dụ Phật nói pháp.

Thuyết Pháp Sư tử hống

Quãng độ chư hữu tình.

Nguyện nguyện đều là vì dạy dỗ chúng sanh, tâm tâm đều là giúp đỡ tất cả chúng sanh. Viên mãn tích sở nguyện, đây là tổng kết. Phía trước chỗ phát bốn mươi tám đại nguyện, nhất thiết gia thành Phật, câu này vô cùng vô cùng chẳng dễ vô cùng khó được.

Nếu như từ trên quả đức mà nói cũng tức là nói từ trên quả báo mà nói, bộ Kinh Vô Lượng Thọ này câu nào là quan trọng nhất?

Tức là câu này. Từ trên nhân mà nói tức là nguyện thứ mười tám thập niệm tất sanh đó là câu tu nhân quan trọng nhất. Còn từ trên quả mà nói là thành Phật, bình đẳng thành Phật nhất thiết giai thành Phật.

Văn Thù, Phổ Hiền phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thành Phật rồi. Nhân, Thiên, ác đạo chúng sanh tín nguyện trì danh sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng thành Phật nhất thiết giai thành Phật.

Đây là cứu cánh viên mãn tất đăng bỉ ngạn. Chúng ta ở phía trước thấy được lúc tiếp dẫn chúng ta thấy được nào là Ngũ Thừa nhân, trình độ này cực kỳ sai biệt.

Từ Đẳng giác Bồ Tát đến địa ngục chúng sanh, cực kỳ sai biệt. Vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đều nhập vào báo độ của A Di Đà Phật gọi là ngũ thừa bình đẳng tề nhập báo độ. Nhân bình đẳng, đến chỗ này chúng ta thấy được quả bình đẳng. Nhất thiết vai thành Phật.

Thật sự bất khả tư nghì. Cái này mới là bản thể của Di Đà bổn nguyện. Cái lý bên trong đây vô cùng vô cùng thâm sâu. Chẳng phải chẳng có đạo lý, lý rất sâu. Duy chỉ có Phật cùng Phật mới có thể cứu cánh. Cũng chính vì lẽ này nên pháp môn này là nan tín chi pháp. Rất nhiều vị Bồ Tát, nhiều vị thiện tri thức chẳng thể tiếp thụ, chẳng thể tin.

Mà cho là gì?

Là việc căn bản chẳng thể có được. Chúng ta thử lật Kinh Phật ra, Phật giới thiệu cho chúng ta mười phương tất cả Chư Phật sát độ chẳng nghe nói có sự việc này, trong tất cả Kinh Phật cũng chẳng có nói qua sự việc này, còn bộ Kinh này thì đặc biệt, Kinh này cùng những bộ Kinh khác chẳng giống nhau cho nên đây là pháp môn đặc biệt. Xin xem tiếp một bài sau cùng.

Ư nguyện nhược khắc quả. A Di Đà Phật nói nguyện này của Ngài quả nhiên là viên mãn rồi. Đại Thiên ứng cảm động. Đây là Ngài cầu chứng minh. Đại thiên thế giới, nhóm thánh chúng này Chư Phật Đại Bồ Tát phải nên cảm động.

Hư không Chư Thiên thần

Đương vũ trân diệu hoa.

Trong hư không những vị Thiên thần, Thần hộ pháp này, phải nên rơi xuống mưa hoa. Tướng lành này làm chứng minh cho ta, lời ta nói câu câu đều là chân thật. Chẳng có một câu nào là giả dối. Bài sau cùng là cầu tướng lành, cầu chứng minh.

Phật cáo A Nan: Pháp Tạng Tỳ Kheo, thuyết thử tụng dĩ, ưng thời phổ địa, lục chủng chấn động, đây tức là đại thiên nên cảm động rồi, lập tức tướng lành này liền hiện tiền, Chư Phật Như Lai làm chứng minh cho Ngài.

Thiên vũ diệu hoa, Thần hộ pháp quả nhiên chẳng sai, liền giáng xuống tướng lành để trang nghiêm Đạo tràng. Dĩ tán kỳ thượng, tự nhiên âm nhạc, không trung tán ngôn, quyết định tất thành, vô thượng chánh giác, điều này là Chư Phật Bồ Tát, Chư Thiên Thiện Thần đều làm chứng minh cho A Di Đà Phật, cho nên chúng ta sau khi đọc, sau khi hiểu rõ rồi.

Ở đây có rất nhiều chỗ để cho chúng ta ghi chặt vào lòng, đáng cho chúng ta trong sinh hoạt đời thường phải hết lòng cố gắng để noi theo.

A Di Đà Phật!

***