Thuaàn tònh thuaàn thieän
Phöôùc hueä song tu

hoathuongtinhkhong.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP MƯỜI - B

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không


TẬP MƯỜI - B
 

Cổ đại đức dạy chúng ta: Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, mạc tái tạo tân ương tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo ương họa mới. 

Nếu chúng ta không biết, đối với hết thảy người và sự vật xung quanh vẫn khởi tâm động niệm, vẫn còn phân biệt, chấp trước, đấy là quý vị đang tạo ương họa mới, tạo nghiệp, lầm rồi. Trên mặt sự bèn tùy duyên, trong lòng phải tinh sạch.

Sự là gì?

Là giả, sự sự vô ngại. Chỉ cần chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chướng ngại gì cũng đều chẳng có.

Chướng ngại là khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là chướng ngại nghiêm trọng nhất. Thứ nhất là đối lập. Quyết định chẳng thể đối lập với người khác. Chớ nên đối lập với sự. Chớ nên đối lập hết thảy vạn vật.

Trước hết phải tiêu trừ điều này, thành tựu viên mãn đạo nghiệp của chính mình trong một đời này. Quyết định chớ nên có ý niệm khống chế, càng không nên có ý niệm chiếm hữu, hãy học điều này, thực hiện từ chỗ này.

Làm thế nào để hóa giải ý niệm?

Niệm A Di Đà Phật để hóa giải. Trong tâm ta chỉ có A Di Đà Phật, chỉ nghĩ đến A Di Đà Phật, nhất tâm mong quay về Thế Giới Cực Lạc sớm hơn một chút, đến Thế Giới Cực Lạc để thành Phật. Hoàn cảnh tu học ở bên ấy tốt đẹp, thọ mạng con người lâu dài, vô lượng thọ, lại thành tựu nhanh chóng.

Vì sao?

Hoàn cảnh tu học tốt đẹp, quý vị chắc chắn chẳng gặp duyên gây chướng ngại, quý vị tìm ở nơi đâu không có chướng ngại?

Các duyên trong Thế Giới Cực Lạc đều là duyên thành tựu. Do vì quý vị ở bên đó, những người quý vị được tiếp xúc đều là Chư Phật Như Lai, Chư Đại Bồ Tát.

Phải hiểu: Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, quý vị có thể thời thời khắc khắc tiếp xúc mười phương hết thảy Chư Phật Như Lai. Quý vị có năng lực phân thân, ngồi nơi đó nghe A Di Đà Phật giảng Kinh, thuyết pháp, đồng thời phân vô lượng vô biên thân đến thập phương Thế giới lễ Phật, cúng dường, nghe Phật thuyết pháp.

Trong mười phương thế giới chẳng có duyên phận này, nhưng Thế Giới Cực Lạc trọn đủ. Do vậy, học rộng nghe nhiều thì đến Thế Giới Cực Lạc sẽ thật sự học rộng nghe nhiều, Chư Phật đích thân giáo huấn. Quý vị có năng lực phân thân.

Quý vị nói xem: Nhân duyên và hoàn cảnh học tập thù thắng như vậy, có thể nào không đến đó?

Cớ gì tham luyến nơi đây?

Thích Ca Mâu Ni Phật sợ chúng ta ở nơi đây sẽ dấy động ý niệm tham luyến, cho nên suốt đời chẳng lập Đạo Tràng, chẳng tham luyến, chỉ cho phép ngủ dưới mỗi gốc cây một đêm, vì sao?

Bóng cây rất lớn, quý vị dấy lên tâm tham, nên chỉ có thể ngủ một đêm, ngày hôm sau sang chỗ khác, chế định như vậy nhằm đoạn tâm tham của quý vị. Đúng là phương tiện thiện xảo, giúp cho chúng ta chẳng sanh phiền não, giúp chúng ta chẳng tạo tội nghiệp.

Cũng có người nói: Một đại sự nhân duyên này chính là sanh tử đại sự. Nếu hiểu theo ý nghĩa ấy thì chưa đủ thấu triệt. Thấu triệt vẫn phải là tuân theo Kinh Điển để nói. Trong Kinh Điển đã nói khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến, đại sự nhân duyên là chuyện ấy.

Trong toàn bộ sự giáo học của Phật Pháp, chuyện này gồm ba giai đoạn phải hoàn thành.

Học Phật là học gì?

Trong Kinh Điển, chúng ta thường đọc thấy câu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Câu này cũng là tiếng Phạn dịch âm, có thể phiên dịch, nhưng vì sao chẳng dịch?

Do tôn trọng nên chẳng dịch, do nó là mục tiêu tu học chung cực của quý vị. Vì thế, giữ nguyên âm tiếng Phạn, nhằm tỏ ý tôn trọng. Dịch sang tiếng Hán là vô thượng, chánh đẳng, chánh giác, đó là tri kiến Phật mà chúng ta phải viên mãn. Trong ba giai đoạn này, trước hết là cầu chánh giác, giác ngộ, giác ngộ chính xác, chẳng lệch lạc, chẳng tà, đều là sẵn có trong tự tánh.

Làm thế nào để có thể thành chánh giác?

Chỉ cần chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, buông chấp trước xuống sẽ thành chánh giác. Thành chánh giác có một danh xưng học vị là A La Hán, quý vị chứng đắc A La Hán.

Vì thế, quý vị phải hiểu: Chứng đắc A La Hán là thành chánh giác. Trong khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, quý vị đạt tới giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn thứ hai là phải tiếp tục buông xuống, buông phân biệt xuống, phân biệt nhẹ hơn chấp trước, chấp trước rất nghiêm trọng.

Do chấp trước mới có lục đạo luân hồi. Buông chấp trước xuống, lục đạo chẳng còn nữa, đó gọi là vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng còn nữa, lục đạo chẳng có, là giả, giống như nằm mộng, tỉnh giấc thì mộng cảnh chẳng tồn tại nữa.

Nếu quý vị buông phân biệt xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng phân biệt, cảnh giới của quý vị sẽ được nâng cao, chứng đắc chánh đẳng, chánh giác. Chánh đẳng, chánh giác được gọi là Bồ Tát, là danh xưng của học vị thứ hai trong Phật Pháp, quý vị thành Bồ Tát.

Ai chẳng phải là Bồ Tát?

Hễ buông xuống sẽ là Bồ Tát. Học vị tối cao sẽ thêm chữ vô thượng vào đằng trước, tức vô thượng, chánh đẳng, chánh giác, danh xưng của học vị này là Phật Đà.

Do vậy, trong Kinh Giáo đại thừa, Đức Phật thường nói: Hết thảy chúng sanh vốn là Phật, quý vị nói có đúng hay không?

Đúng. Chỉ cần quý vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quý vị sẽ là Phật. Chẳng buông xuống thì vẫn là Phật. Chẳng thể nói quý vị không phải là Phật, nhưng là một vị Phật có đèo thêm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thật đấy, chẳng giả. Do vậy, Đức Phật chẳng dám khinh mạn ai.

Vì sao?

Ngài biết hết thảy đều là Phật. Phật Phật bình đẳng, Phật Phật tánh đức giao lưu.

Phật thấy hết thảy chúng sanh là Phật, nhưng chúng sanh thấy Phật cũng là chúng sanh, vì sao?

Họ có phân biệt. Dùng cái tâm phân biệt để nhìn Phật, dùng cái tâm chấp trước để nhìn Phật, cho nên khác nhau, thấy lầm rồi.

Do vậy, nếu quý vị hỏi: Ngày nào tôi sẽ thành Phật?

Rất đơn giản. Ngày nào quý vị thấy tất cả hết thảy chúng sanh đều là Phật, chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi. Không chỉ hữu tình chúng sanh đều là Phật, mà cây cối, hoa, cỏ, núi sông, đại địa thảy đều là như vậy, chẳng có một pháp nào không phải, quý vị thành Phật rồi.

Quý vị vẫn thấy ưa thích cái này, thấy chán ghét cái kia, quý vị là lục đạo phàm phu. Vì chuyện này mà Đức Phật xuất hiện trong cõi đời, giúp chúng ta là những vị Phật bị mê hoặc, điên đảo khôi phục bình thường. Đấy là nhân duyên hưng khởi của Chư Phật, Bồ Tát.

Phẩm Như Lai Tánh Khởi của Kinh Hoa Nghiêm có một câu như sau: Như Lai, Ứng Cúng, đẳng, chánh giác, đấy là mười hiệu của Đức Phật. Mười thứ danh hiệu, tất cả Chư Phật bình đẳng, mười loại đức hiệu ấy là tánh đức, cho nên trong tự tánh của quý vị thảy đều có.

Tánh khởi chánh pháp, bất khả tư nghị tánh khởi chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn, chánh pháp là đại thừa, đại thừa do đâu mà có?

Trong tự tánh vốn trọn đủ, là thật, chẳng giả. Vì là tánh khởi, nó chẳng phải là duyên khởi, duyên khởi chẳng thật, tánh khởi là thật.

Phải biết: Luân lý đạo đức như Tổ Tiên đã dạy là tánh khởi, chẳng phải là duyên khởi. Văn hóa truyền thống của Trung Quốc dùng một chữ làm đại biểu, tức là hiếu đạo. Hiếu văn hóa văn hóa đặt nền tảng trên chữ hiếu. Từ hiếu mở rộng thành bốn khoa là ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, và bát đức.

Chúng là tánh khởi, chẳng do một ai sáng chế, chẳng do ai định đặt, chẳng phải vậy. Giống như trong thiên nhiên, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông phân minh, chẳng do con người định đoạt, tự nhiên mà. Danh từ trong Phật Pháp nhằm diễn tả điều này là pháp nhĩ như thị pháp vốn là như thế, vốn là như vậy, cho nên là tánh đức.

Tổ Tiên Trung Quốc cũng rất phi phàm, nói ra chân tướng sự thật: Tánh con người vốn lành.

Tam Tự Kinh có câu: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện con người thuở đầu, tánh vốn lành, thiện ấy chẳng phải là thiện trong thiện ác. Thiện trong thiện ác là tương đối, là duyên khởi, thiện trong câu tánh bổn thiện là tánh khởi. Tánh khởi chẳng có tương đối.

Nói cách khác, hai bên thiện và ác đều chẳng vướng mắc, đó là chân thiện. Có thiện, có ác, đó là bất thiện. Cảnh giới này cao lắm, tánh con người vốn thiện. Nếu dùng Phật Pháp để nói sẽ dễ hiểu hơn.

Huệ Năng Đại Sư kiến tánh, đã diễn giải tánh như thế nào?

Quý vị hãy xem Ngài miêu tả: Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, thanh tịnh là tánh đức, thanh tịnh là tánh khởi, tánh vốn là như vậy, chưa từng bị nhiễm.

Nay bổn tánh thanh tịnh của chúng ta có bị nhiễm hay không?

Chẳng có. Tại Thánh hay tại Phật, chẳng thêm tí nào, nơi phàm chẳng giảm, nó cũng chẳng giảm tí nào, đúng là bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh. Nó chẳng phải là nhị biên, mà cũng chẳng phải là trung đạo.

Trung đạo và nhị biên đối lập, cho nên: Nhị biên bất lập, trung đạo bất tồn. Hai bên chẳng lập, trung đạo chẳng còn, chẳng thể nghĩ bàn. Quý vị chẳng thể nghĩ, hễ nghĩ bèn trật. Quý vị chẳng thể nói, hễ nói cũng sai, không thể nói được.

Vì thế, các vị Đại Đức trong Tông Môn có tỷ dụ: Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri như người uống nước, ấm lạnh tự biết, chính quý vị biết rõ ràng, rành rẽ, nhưng chẳng thể nói được.

Chỉ có người đạt đến cảnh giới ấy, đôi bên hiểu ý nhau bèn cười, đều hiểu rõ. Kẻ chưa đạt đến cảnh giới ấy thì không được. Do vậy, tánh khởi và duyên khởi khác nhau, tánh khởi chánh pháp, đại thừa là tánh khởi, tiểu thừa là duyên khởi.

Trong đại thừa có duyên khởi hay chăng?

Có. Nếu phân chia đại thừa theo đẳng cấp, thượng thượng thừa là tánh khởi, còn đại thừa, Trung thừa, tiểu thừa như thường nói đều là duyên khởi. Thiền Tông rất rõ rệt, Huệ Năng Đại Sư tiếp dẫn bậc thượng thượng căn, đó là tánh khởi.

Thần Tú Đại Sư tiếp dẫn đại thừa, đó là duyên khởi, vì Ngài còn có thấy: Thân thị bồ đề thụ, tâm như minh kính đài thân là cội Bồ Đề, tâm như đài gương sáng, đấy là duyên khởi. Chúng ta phải lắng lòng thấu hiểu.

Sở dĩ giả hà?

Phi thiểu nhân duyên, thành đẳng, chánh giác, xuất hưng ư thế.

Vì sao vậy?

Chẳng phải do đôi chút nhân duyên mà Phật thành đẳng, chánh giác, xuất hiện trong cõi đời, đó là gì?

Đó là duyên khởi. Chư Phật Như Lai ứng hóa trong thế gian là duyên khởi, chẳng phải là tánh khởi.

Duyên khởi là gì?

Cảm ứng.

Do nhân gì?

Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Chúng tôi dùng thí nghiệm với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng để trình bày, quý vị sẽ hiểu rõ. Ông ta làm thí nghiệm với nước, có rất nhiều ảnh chụp, chúng tôi có treo những bức ảnh ấy trên hành lang ở nơi đây, quý vị có thể đến xem. Chúng ta khởi tâm động niệm là cảm, là duyên.

Nước là khoáng vật, tức vật chất, vật chất thì sao?

Nó thấy nghe hay biết, thấy nghe hay biết vĩnh viễn chẳng diệt.

Câu nói kiến tánh thứ hai của Huệ Năng Đại Sư là: Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Cái vốn chẳng sanh diệt chính là thấy nghe hay biết, cho nên thấy nghe hay biết là tự tánh.

Nhưng sau khi mê thì sao?

Sau khi mê sẽ không gọi là thấy nghe hay biết, mà gọi là gì?

Gọi là thọ, tưởng, hành, thức, biến thành A lại da thức. A lại da thức là thọ, tưởng, hành, thức. Quý vị thấy năm thức đầu là thọ. Thức thứ sáu là tưởng. Thức thứ bảy là hành, hành là niệm niệm chẳng trụ, thức thứ tám là thức, thấy nghe hay biết biến thành thọ, tưởng, hành, thức.

Chúng ta gọi thọ, tưởng, hành, thức là tinh thần, hay tâm lý, hoặc tâm pháp. Do vậy, tâm pháp và vật chất vĩnh viễn chẳng tách rời. Chỉ cần là vật chất, trong ấy nhất định có thấy nghe hay biết. Trong lục đạo, chắc chắn có thọ, tưởng, hành, thức.

Do vậy, chúng ta khởi lên ý niệm: Ta ưa thích ngươi, quý vị thấy nước bèn tiếp nhận, nó cũng ưa thích chúng ta, hiện ra cấu trúc kết tinh hết sức đẹp đẽ. Chúng ta ưa thích nó, nó ưa thích chúng ta. Ta chán ghét nó, nó hiện tướng rất xấu xí, thô kệch, có nghĩa là tôi cũng chán ghét quý vị. Khoáng vật thông hiểu tình cảm của con người.

Tôi bảo Tiến Sĩ Giang Bổn: Nước có thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả vật chất đều có thọ, tưởng, hành, thức ông hãy gắng thí nghiệm. Nó không chỉ hiện tướng sắc.

Đức Phật dạy nó có bốn loại: Sắc, thanh, hương, vị, nó có bốn loại tướng ấy. Nay ông làm thí nghiệm, mới nhìn thấy một trong bốn loại, mới thấy sắc. Quý vị còn chưa nghe âm thanh, chưa ngửi hương, chưa nếm vị. Nó có sắc, thanh, hương, vị.

Vì thế, khoa học vẫn còn kém Phật Pháp một khoảng cách. Khi nào phương pháp khoa học có thể trắc nghiệm sắc, thanh, hương, vị thì mới là viên mãn. Đức Phật nói tới thật tướng của các pháp, chẳng phải là giả, mà là chân tướng.

thật tướng là chân tướng của hết thảy các pháp. Nay chúng ta nói hiện tượng vật chất nhỏ nhất là hạt cơ bản, tức khoa khắc quark, hạt vi lượng, chẳng thể thấy bằng mắt thường. Quý vị chớ nên coi thường vật chất bé bỏng như vậy, tất cả hết thảy hiện tượng vật chất đều do vật chất nhỏ nhoi này hợp thành.

Mỗi vật chất nhỏ nhất, vật chất cơ bản, thảy đều có thọ, tưởng, hành, thức. Hễ giác ngộ, thọ, tưởng, hành, thức biến thành thấy, nghe, hay, biết. Khi mê, thấy nghe hay biết biến thành thọ, tưởng, hành, thức. Nó bất sanh, bất diệt, đó là chân tướng sự thật.

Vì thế, Đức Phật xuất hiện trên thế gian là cảm ứng. Chúng sanh chẳng có cảm, Phật sẽ không thể xuất hiện. Chúng sanh có cảm, Phật bèn xuất hiện. Chúng ta muốn thấy A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thật sự bị quý vị trông thấy.

Quý vị có cảm, tôi chẳng có cảm, vì sao cũng thấy A Di Đà Phật?

Thật ra là có cảm, nhưng chính quý vị không biết. Cảm có hiển cảm cảm rõ rệt và minh cảm cảm ngấm ngầm. Hiển là khởi tâm động niệm rất rõ rệt, tôi muốn cầu Phật.

Minh là gì?

Tôi khởi tâm động niệm, nhưng chính mình cũng không biết, hoặc là duyên quá khứ bất tri bất giác chín muồi, nên cảm Phật hiện tiền, Bồ Tát hiện tiền. Ứng cũng có hai thứ là hiển ứng và minh ứng.

Chúng ta cầu Phật thì Phật, Bồ Tát có đến hay không?

Đến. Chúng ta mắt thịt nhìn không thấy, đó là minh ứng ứng ngấm ngầm. Chẳng phải là các Ngài không đến, thật sự các Ngài ở bên cạnh quý vị, nhưng quý vị không thấy các Ngài, các Ngài thấy quý vị. Quý vị chẳng thấy các Ngài.

Minh ứng là âm thầm chiếu cố, giúp đỡ quý vị, có thật, chẳng phải là không có. Có hiển cảm, hiển ứng, minh cảm, minh ứng, cho nên có bốn câu cảm ứng.

Đây là nói rõ chuyện gì?

Phật Pháp là duyên sanh pháp. Chớ nên chấp trước duyên sanh pháp.

Phật Pháp có cần thiết hay không?

Nay tôi đang mê, vẫn chưa khai ngộ, chưa kiến tánh, tôi cần nó, nó giúp đỡ tôi. Sau khi kiến tánh, chẳng cần nữa, buông toàn bộ xuống. Sau khi kiến tánh, nếu quý vị vẫn chấp trước Phật Pháp thì lại mê rồi, trật lất rồi. 

Chúng ta chẳng thấy người kiến tánh mà vẫn còn kè kè cả đống Kinh Sách, chẳng có. Kẻ chưa kiến tánh đi tới đâu đều vác theo Kinh Sách, người kiến tánh chẳng có.

Vì sao?

Tất cả hết thảy Kinh Luận thảy đều từ tự tánh lưu lộ, người ấy cần phải vác theo làm chi?

Huệ Năng Đại Sư không biết chữ, suốt đời chẳng mang theo quyển sách nào. Ngài mang theo đến bất cứ nơi đâu là y bát, chớ hề có một quyển Kinh Sách nào. Quý vị đem Kinh Sách hỏi Ngài, Ngài đối đáp như nước chảy, chẳng có gì bắt bí Ngài được.

Đó là gì?

Xứng tánh. Chúng ta học Phật có mục tiêu chung cực là muốn kiến tánh, muốn kiến tánh phải buông xuống. Buông phiền não chướng xuống, buông sở tri chướng xuống, sẽ chẳng có chướng ngại nào. Câu tiếp theo là dĩ thập chủng.

Thập chẳng phải là con số mà là tỷ dụ, tỷ dụ điều gì?

Vô lượng, viên mãn. Hoa Nghiêm dùng thập để biểu thị pháp, Kinh Di Đà dùng thất để biểu thị pháp, đều chẳng phải là con số, mà nhằm tượng trưng cho sự viên mãn.

Thất tượng trưng cho viên mãn: Bốn phương, trên và dưới là lục, lại còn có chính giữa, thành thất. Thất biểu thị pháp, viên mãn. Thập là con số tượng trưng, từ một đến mười là con số viên mãn, nó được sử dụng nhằm biểu thị pháp, cho nên thập tượng trưng sự viên mãn.

Cũng giống như vậy, câu kế tiếp là: Vô lượng vô số, vô biên, vô tận, dùng theo ý nghĩa này. Bách thiên A tăng kỳ trăm ngàn A tăng kỳ, A tăng kỳ Asamkhya là một đơn vị số lượng lớn của Cổ Ấn Độ, nó là một trong mười con số lớn.

Nhân duyên, thành đẳng, chánh giác xuất hưng ư thế, chúng ta có thể tin tưởng lời này hay chăng?

Có thể tin tưởng. Chắc chắn chẳng phải là một mình chúng ta, chúng ta ở nơi đây tưởng Phật, Phật bèn xuất hiện trong cõi đời, chẳng phải là như vậy. Bao nhiêu chúng sanh có duyên với Phật, do cộng nghiệp sở cảm, Phật bèn xuất hiện trong thế gian, chẳng đơn giản.

Nếu chúng ta suy nghĩ lại, nay chúng ta là cái thân nghiệp báo, mang theo nghiệp đến thế gian này, tìm được cha mẹ, chúng ta sanh trong nhân gian, có bao nhiêu nhân duyên?

Thưa quý vị, cũng giống như vậy, cũng là do mười thứ vô lượng, vô số, trăm ngàn A tăng kỳ nhân duyên mà chúng ta đến thế gian này. Trong các duyên ấy có nhiễm, có tịnh, có thiện, có ác. Phật, Bồ Tát xuất hiện, duyên ấy là thanh tịnh, là thiện.

Chúng ta đến thế gian này, xả thân, nhận thân, luân hồi trong lục đạo, duyên ấy là nhiễm duyên, bất thiện duyên. Vì thế, bất luận một pháp nào cũng đều do vô lượng nhân duyên thành tựu. Phàm là nhân duyên thành tựu, phải biết nó chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể.

Trung Quán Luận nói: Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói nó là không, Đức Phật nói như vậy. Vì thế, đương thể tức thị không, liễu bất khả đắc bản thể của nó chính là không, trọn chẳng thể được, quý vị có thể thưởng thức nó, chứ chẳng thể khống chế, chẳng thể chiếm hữu.

Đấy là đúng. Quý vị hoàn toàn làm đúng. Nếu quý vị muốn khống chế, toan chiếm hữu, sai rồi. Quý vị tạo nghiệp.

Bất luận quý vị tạo tác ra sao, đều chẳng thể khống chế được, mà cũng chẳng chiếm hữu được. Đấy là nói thật với quý vị. Khi quý vị có ý niệm ấy, trong tâm bị ô nhiễm, chẳng thanh tịnh, tâm thanh tịnh mất đi, tâm bình đẳng bị mất, đấy là những tâm được nhắc đến trong đề mục Kinh Vô Lượng Thọ, tâm giác ngộ bị mất đi.

Thanh tịnh, bình đẳng, giác là tánh đức mà quý vị sẵn có, quý vị vốn là như vậy. Một niệm sai lầm, cả ba thứ ấy đều bị mất, chẳng còn thanh tịnh, biến thành nhiễm ô. Chẳng còn bình đẳng, biến thành kiêu căng, ngạo mạn. Chẳng còn giác, biến thành ngu si, hồ đồ, biến chất rồi.

Do vậy, người thật sự tu hành phải biết: Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, gìn giữ thanh tịnh, bình đẳng, giác của chính mình, thật sự tu hành. Thật sự tu hành thì quý vị phải nghĩ Thích Ca Mâu Ni Phật đã nêu gương cho chúng ta, thật sự buông xuống.

Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, tâm địa Phật thanh tịnh, cái gì cũng đều chẳng có, nhưng điều gì Ngài cũng đều biết, đều trọn đủ, chẳng có mảy may khiếm khuyết nào, vì sao?

Tánh đức là viên mãn, chẳng thể nghĩ bàn, thật đấy, chẳng giả đâu.

Tiếp đó là nói: Nãi chí quảng thuyết như thị đẳng vô lượng nhân duyên.

Duy vi nhất đại sự nhân duyên, đại sự nhân duyên giả hà?

Duy dục chúng sanh khai thị Phật tri kiến cố. Cho đến rộng nói vô lượng nhân duyên như thế, chỉ là một đại sự nhân duyên.

Đại sự nhân duyên gì vậy?

Chỉ vì muốn khai thị tri kiến của Phật cho chúng sanh. Duy là duy độc chỉ có một, hy vọng khai thị tri kiến của Phật cho chúng sanh. Phật tri Phật kiến là trí huệ bát nhã vốn sẵn có trong tự tánh.

Tiếp theo là nói: Phù Hoa Nghiêm Kinh nãi Thế Tôn tối sơ sở sáng ngôn.

Kinh Hoa Nghiêm là do Đức Thế Tôn đã nói ra đầu tiên, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên thế gian này, khi thành Phật, bộ Kinh đầu tiên được Ngài giảng là Kinh Hoa Nghiêm, đó là Kinh được giảng trước hết, tiểu thừa chẳng thừa nhận, vì sao?

Đức Phật giảng trong định, chúng ta là những kẻ bình phàm, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi yên dưới cội Bồ Đề trong mười bốn ngày.

Ngài tịnh tọa dưới cội Bồ Đề hai tuần mới xuất định, làm sao chúng ta biết được?

Ở trong định, Ngài vì hàng Pháp Thân Bồ Tát giảng Kinh Hoa Nghiêm, đó chính là gì?

Ngài đã khai ngộ, minh tâm kiến tánh, tánh là như thế nào?

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chính là báo cáo chi tiết tường tận với mọi người. Huệ Năng Đại Sư khai ngộ đã trình lên Ngũ Tổ Nhẫn Hòa Thượng hai mươi chữ. Huệ Năng Đại Sư khai ngộ chẳng khác gì Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ, hoàn toàn bình đẳng.

Sau đấy, chúng ta mới biết, hai mươi chữ của Huệ Năng triển khai thành Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cô đọng thành hai mươi chữ ấy, tuyệt diệu. Một đằng là nói chi tiết, một đằng là chỉ nêu cương lãnh.

Do vậy, Huệ Năng Đại Sư có thể giảng Kinh Hoa Nghiêm hay không?

Không ai khải thỉnh, không ai tìm Ngài. Nếu thật sự muốn khải thỉnh, xin Ngài giảng Kinh Hoa Nghiêm, Ngài sẽ giảng giống hệt Thích Ca Mâu Ni Phật, thật đấy, chẳng giả.

Đây cũng là chỉ dạy cho chúng ta biết phải học Phật như thế nào, chẳng cần dùi mài nơi Kinh Giáo. Dùi mài Kinh Giáo khổ chẳng thể nói nổi.

Vì sao?

Trí huệ chẳng khai.

Học được gì?

Học bề ngoài, học văn tự bề ngoài, nói theo danh từ hiện thời là Phật Học, chẳng phải là Học Phật.

Học Phật thì phải khai ngộ giống như Phật, trọn chẳng phải là trong lòng ghi nhớ những thứ của Phật, trong tâm ghi nhớ những thứ của Phật sẽ biến thành gì?

Biến thành sở tri chướng, vẫn là chướng ngại quý vị minh tâm kiến tánh.

Nhưng như thế nào?

Nói chung, chẳng hề chướng ngại quý vị vãng sanh, chỉ chướng ngại quý vị kiến tánh. Quý vị chẳng thấy được tánh, sẽ chướng ngại quý vị chứng quả. Chắc chắn tạo thành chướng ngại.

Nhưng nếu quý vị sốt sắng niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn phải vứt bỏ những thứ ấy, quý vị dùng cái tâm thanh tịnh sanh Vô Lượng Thọ, sanh vào cõi Cực Lạc. Tâm không thanh tịnh sẽ chẳng đến được Thế Giới Cực Lạc, phải hiểu điều này. Do vậy, Kinh Hoa Nghiêm được nói đầu tiên.

Pháp Hoa Kinh nãi mạt hậu chi thùy giáo Kinh Pháp Hoa là lời dạy lúc sau cùng, nói một Kinh lúc ban đầu, nói một Kinh cuối cùng. Tự thỉ chí chung, duy vị thử đại sự nhân duyên, dục linh chúng sanh khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến.

Từ đầu đến cuối, chỉ vì một đại sự nhân duyên này: Muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật.

Có nghĩa là gì?

Tiếp đó, cụ viết: Diệc tức dục nhất thiết chúng sanh khai minh bổn tâm, đồng Phật tri kiến, đẳng thành chánh giác dã cũng là muốn cho hết thảy chúng sanh khai minh bổn tâm, có cùng tri kiến như Phật, cùng thành chánh giác, đây là lời giải thích.

Tri kiến của Phật là gì?

Tri kiến của Phật là bổn tâm của quý vị.

Bổn tâm của quý vị giống như Huệ Năng Đại Sư đã nói: Nào ngờ tự tánh, đó chính là bổn tâm.

Vốn tự thanh tịnh, vốn tự trọn đủ, trọn đủ gì?

Chẳng thiếu thứ gì, viên mãn.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã nói: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, dùng câu này có thể giải thích câu: Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ của Huệ Năng Đại Sư, trọn đủ gì?

Trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai.

Trí huệ và đức tướng là gì?

Dùng ngay bản Kinh này để nói sẽ là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đại thừa là trí huệ, Vô lượng thọ là đức, trang nghiêm là tướng. Quý vị thấy hết thảy đều trọn đủ, vốn tự trọn đủ, chẳng khiếm khuyết. Vì thế, Phật Pháp chẳng có gì khác, buông xuống là được.

Thuở ấy tôi học Phật, người xuất gia tôi được gặp đầu tiên là Chương Gia Đại Sư do một người bạn giới thiệu. Thời Mãn Thanh, người bạn ấy là một vị thân vương, tức mẫn thân vương. Thanh triều sụp đổ, ông ta trở thành thường dân, chúng tôi mới có duyên quen biết. Ông ta là đệ tử của Chương Gia Lạt Ma, tôi vừa mới tiếp xúc Phật Pháp, xem Kinh nơi đó.

Ông ta trông thấy, bảo: Ông xem Kinh có liễu giải hay không?

Tôi nói: Không được. Tham cứu ý nghĩa không ra.

Ông ta hỏi: Có muốn tìm một vị thầy chỉ điểm hay không?

Tôi hỏi: Ai?

Ông ta đáp: Chương Gia Đại Sư. Tôi nói vâng. Tôi cũng chẳng biết Chương Gia Đại Sư là ai, do ông ta có lòng tốt, tôi nói vâng, có người chỉ điểm thật tốt quá. Ông ta bèn dẫn tôi đến gặp Ngài.

Tôi gặp mặt Đại Sư, câu đầu tiên là hướng về Ngài thỉnh giáo, tôi nói: Thầy Phương đã giới thiệu Kinh Phật cho con, con biết cái hay của Phật Pháp, nhưng có phương pháp nào để con khế nhập rất nhanh hay chăng?

Tôi nêu câu hỏi như thế.

Ngài nhìn tôi, tôi cũng nhìn Ngài, chúng tôi nhìn nhau tới nửa giờ, Ngài buông một chữ: Có! Tôi đợi cả nửa tiếng đồng hồ mới được một chữ có, tinh thần phấn chấn trở lại.

Ngài lại chẳng nói gì, lại đợi khoảng sáu bảy phút, Ngài bảo tôi sáu chữ: Thấy thấu suốt, hãy buông xuống. Phương pháp này của Lão Nhân khiến tôi cảm thấy rất kinh ngạc.

Đơn giản như thế, vì sao?

Tôi hỏi quý vị, quý vị hãy nên trả lời, cớ sao phải đợi nửa giờ rồi mới trả lời?

Ước chừng mười mấy, hai mươi năm sau, tôi mới hoát nhiên đại ngộ: Thuở ấy, tôi tuổi trẻ, nhất định là tánh tình bộp chộp, hời hợt, cho nên thầy nhìn tôi, để tôi buông toàn bộ vọng niệm xuống, tập trung tinh thần, dùng tâm thanh tịnh nghe Ngài răn dạy.

Nhưng Ngài nói có, tinh thần của tôi phấn chấn, chẳng phải là lại bộp chộp, phập phều ư?

Vì thế, lại phải nén xuống, khiến cho tôi nghĩ đến ý vị giáo học của cổ nhân, đến lúc đó, tôi mới mấp mé nếm được đôi chút, ngôn ngữ hết sức đơn giản.

Ngài dạy chẳng sai, từ khi chúng tôi bắt đầu học Kinh Giáo cho tới hiện thời, năm mươi chín năm, giảng Kinh cũng đã giảng được năm mươi hai năm mới hiểu rõ.

Sở dĩ, người hiện tại học những thứ này nọ chẳng tốt đẹp, đó là lẽ đương nhiên, vì sao?

Hời hợt, bộp chộp, kém xa tôi, làm sao có thể học được gì?

Thuở ấy, tôi nghĩ mình cũng khá lắm, nhưng trước mặt Chương Gia Đại Sư vẫn chưa được, chưa đủ tư cách, vẫn phải ngồi với Ngài nửa tiếng, Lão nhân gia mới mở kim khẩu.

Hiện thời tìm đâu ra loại học trò này?

Nếu học trò nêu câu hỏi với tôi, mà tôi cả nửa giờ chẳng trả lời, hắn bèn quay ngoắt mình bỏ đi, điều gì cũng không nghe nữa. Tôi vẫn còn là khá lắm, còn có thể thật sự chờ đợi. Vì thế, cổ nhân dạy học, truyền đạo chẳng giống người hiện thời, họ thật sự có những thứ để trao truyền.

Do vậy, nói toạc chuyện này ra, với mong muốn hết thảy chúng sanh sẽ khai minh bổn tâm. Khai minh bổn tâm là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Có cùng tri kiến với Phật, sở chứng hoàn toàn giống như mười phương Chư Phật Như Lai.

Đó gọi là thành đẳng, chánh giác: Đẳng là bình đẳng, thành chánh giác, chánh giác ở đây là vô thượng, chánh đẳng, chánh giác. Bổn Kinh hưng khởi nhân duyên diệc phục như thị nhân duyên hưng khởi Kinh này cũng giống như thế, chẳng khác gì Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Pháp Hoa, trực tiếp giúp chúng sanh khai minh bổn tâm, có cùng tri kiến với Phật, chứng đắc vô thượng, chánh đẳng, chánh giác.

Đây là xếp Kinh Vô Lượng Thọ Kinh bình đẳng với Kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Không chỉ là bình đẳng, mà còn vượt trội, đến phần sau sẽ trình bày.

Hoa Nghiêm và Pháp Hoa dẫn đường cho chúng ta nhập Vô Lượng Thọ, điều này có chứng cứ. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, rành rành là Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Do vậy, Vô Lượng Thọ là chỗ quy túc, chỗ tổng kết của Hoa Nghiêm và Pháp Hoa.

Quý vị biết pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, không thể suy tưởng, điều này mới khiến cho chúng ta thật sự nhận biết vị trí của bộ Kinh này trong Phật Pháp, chẳng Kinh nào có thể sánh bằng. Thật sự hiểu rõ ràng, minh bạch, mới biết có được Kinh này chẳng dễ dàng.

Đã có được là may mắn lắm thay. Tiếp đó, lấy Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh để làm thí dụ.

Đây là bản Kinh A Di Đà do Huyền Trang Đại Sư phiên dịch, bản được tụng niệm phổ biến hiện thời là do Cưu Ma La Thập Đại Sư phiên dịch vào thời Diêu Tần. Huyền Trang Đại Sư thuộc đời Đường, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh là bản dịch Kinh Di Đà đời Đường.

Trong Kinh A Di Đà do Huyền Trang Đại Sư phiên dịch, có một câu như thế này: Ngã quán như thị lợi ích an lạc đại sự nhân duyên, thuyết thành đế ngữ. Ta thấy đại sự nhân duyên an lạc như thế, nói lời đúng thật này. Trong bản dịch của La Thập Đại Sư chẳng có câu này, nhưng trong bản của Ngài Huyền Trang Đại Sư thì có.

Huyền Trang Đại Sư là trực dịch, tức là chiếu theo nguyên văn Kinh Văn bằng tiếng Phạn để dịch thẳng ra, La Thập Đại Sư dịch ý, chẳng chiếu theo nguyên bản Kinh Văn, Ngài đem ý nghĩa trong bản gốc, hoàn toàn dùng cách hành văn quen thuộc của người Hán để phiên dịch, nên chúng ta đọc những bản Kinh do Ngài dịch thấy giống như đọc Cổ Thư Trung Quốc, hết sức dễ tiếp nhận.

Khả kiến Tịnh Độ pháp môn chi hưng khởi, chánh đồng ư Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, đồng vi nhất đại sự nhân duyên dã.

Hà dĩ cố?

Đủ thấy pháp môn Tịnh Độ được hưng khởi, giống hệt như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, cùng vì một đại sự nhân duyên.

Vì sao vậy?

Lại thêm một câu hỏi vì sao?

Vì sao mà đã hết thời gian rồi?

Tôi quên khuấy thời gian đã hết rồi. Ngày hôm nay chúng ta học tập tới đây, ngày mai sẽ học tiếp.

A Di Đà Phật!

***